TIẾN-SĨ NGUYỄN
XUÂN LẠI
*
Lần này ra Huế
[giai-đoạn Lê Xuân Nhuận làm Giám-Đốc Ngành
Đặc-Biệt của Cảnh-Lực VNCH tại Vùng I
―
1973-75]
tôi ngẫu-nhiên gặp lại Nguyễn Xuân Lại, một
người bạn thân đã cách xa nhau từ hồi tôi bị phát-vãng ra khỏi
Miền Trung.
Bây giờ Lại là
giáo-sư, dạy Luật tại
Viện Ðại-Học
Sài-Gòn và một số Viện Ðại-Học khác.
Chuyến này anh ra Huế dạy tại
Viện Ðại-Học Huế.
Khi đi ngang qua “Bót Cò” cũ, trước kia là
trụ-sở của Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, nơi hai chúng tôi đã làm việc chung với
nhau một thời-gian dài, cả Lại lẫn tôi đều
hướng mắt nhìn vào.
Ở đó, chúng tôi đã có với nhau rất nhiều kỷ-niệm; nhưng cái kỷ-niệm đắng-xót
nhất là cuộc tranh-luận giữa hai chúng tôi mà kết-quả là tôi lâm vòng
gian-truân.
Lúc nãy, khi mới gặp lại nhau,
Lại đã nói ngay là anh rất buồn vì việc đáng
tiếc xảy ra cho tôi ngày xưa. Giờ đây, có lẽ để xí-xóa chuyện cũ, anh nói
qua chuyện mới:
― Mình được mời làm
Thứ-Trưởng, nhưng mình chưa nhận.
Sự tiết-lộ ấy đã khiến tôi suy-nghĩ nhiều .
*
Năm 1951,
chính-quyền Quốc-Gia Việt-Nam ban-hành chế-độ quân-nhiệm, theo đó các viên-chức
Cảnh-Sát Công-An được xem là công-chức nên cũng lần-lượt bị động-viên.
Nguyễn Xuân Lại vào thụ-huấn tại
Trung-Tâm Huấn-Luyện Sĩ-Quan Trừ-Bị ở
Thủ Ðức; tôi thì “động-viên chuyên-môn [với
tư-cách văn-nghệ-sĩ & ký-giả]” vào làm việc tại
Phòng Năm thuộc Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu
ở Huế.
Cuối năm 1956, mãn nhiệm-kỳ quân-vụ, tôi trở về
Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế và được cử giữ
trách-vụ Trưởng Phòng Hành-Chánh kiêm Trưởng Phòng Huấn-Luyện. Tôi cũng
kiêm-nhiệm Trưởng Ban Tổ-Chức và Thuyết-Trình-Viên các Lớp “Học-Tập
Chính-Trị và Công Dân Giáo Dục” mà nội-dung và phương-thức điều-hành
được ông Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu, bào đệ của
Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, chỉ đạo cho
toàn-quốc.
Tiếp-tục đem hết tâm-sức ra phụng-sự
một lý-tưởng mả tôi hằng mơ, nhưng ở trong cơ-quan Cảnh-Sát là nơi hằng ngày
tiếp-cận với mọi giới đồng-bào, tôi theo-dõi tình-hình sinh-hoạt của quần-chúng
trên mọi lĩnh-vực tại địa-phương, tôi mới dần dần
biết thêm, dù chưa đầy đủ, những điều chướng tai gai mắt, và cả những điều
bất-nhân thất-đức, do một số thân-nhân, gia-nhân, và thuộc-hạ của
Diệm gây ra. Ðối với
Ðảng Cần-Lao, đối với Ðạo Ky-Tô, cũng
như đối với cả ba Ngành trong Chính-Quyền thời
Ðệ-Nhất Cộng-Hòa, họ chỉ là thiểu-số; nhưng thiểu-số đó đã cậy thế họ
Ngô mà giật dây các cơ-quan chấp-hành của chế
độ, để áp-bức và hãm-hại lương dân, hầu thỏa-mãn tư-lợi hoặc tư-thù.
MỘT BUỔI LỄ CHÀO QUỐC-KỲ
Thuở đó, các công-sở và quân-cứ đều cử lễ
Chào Quốc-Kỳ vào lúc bảy giờ rưỡi sáng mỗi
ngày đầu tuần. Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Nguyên Trung-Phần cho nhân-viên
trực-thuộc sắp hàng chỉnh-tề trước sân trụ-sở Nha năm phút sớm hơn.
Hôm ấy, toàn-thể viên-chức hiện diện đều vô cùng
hoang-mang, và sau đó ngán-ngẩm kể lại với mọi người sự-việc đã xảy ra.
Ô. Hồ Đắc Vang,
Trưởng Ðội Biệt-Ðộng thuộc Ty Cảnh-Sát
Thành-Phố Huế, đem thuộc-hạ đến bao vây sân
chào cờ tại Nha và gác chận trước đường, vào
lúc đúng bảy giờ hai mươi lăm phút. Vang
ra lệnh điểm-danh và đóng cổng trụ-sở. Lúc đó, Ô.
Trần Văn Cư và Ô.
Tôn Thất Dẫn, hai Chủ-Sự Phòng thuộc
Nha, vừa đến nơi thì bị giữ lại bên ngoài.
Viên Giám-Ðốc Nha ấy liền đứng ra hứa sẽ phạt
hai viên-chức kia, và xin cho họ được vào vì còn kịp dự lễ chào cờ. Nhưng
viên Trưởng Ðội thuộc Ty
― là một nhân-viên dưới
quyền và ở dưới nhiều cấp
― đã không chấp-thuận.
Vang điều-khiển lễ thượng-kỳ, hát quốc-ca và
“suy-tôn Ngô Tổng-Thống”, xong chở
Cư và Dẫn
đến báo-cáo nội-vụ lên Văn-Phòng của “Cậu”,
tức ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn, bào đệ của anh
em Diệm+Nhu.
Vang là một trong số ít những phần-tử đến hầu “Cậu”
thường-xuyên.
MỘT BUỔI HỌP TỐ KHỔ
Ô. Ngô Ðình
Cẩn có một ngôi nhà nghỉ mát tại bãi bể
Thuận-An.
Vì lý do an-ninh, chỗ nầy cách xa khu tắm bể của đồng-bào. Những ngày cuối tuần
vào mùa hè, Cẩn thường về đó câu cá giải-trí.
Sợ “Cậu” câu cá một mình thì buồn, một số
nhân-vật tín-cẩn, hoặc muốn được thân-cận, bèn cùng đến đó câu cá, mong tạo
bối-cảnh thân-mật cho ông. Trừ những người được ông sai phái hoặc giữ lại
để chuyện-trò, số còn lại phải chọn chỗ nào không gần ông lắm
―
vì sợ nếu ông không câu được cá mà bị kẻ khác ton-hót đổ lỗi câu giành với ông
thì khốn
― đồng-thời họ cũng không đi
quá xa, để vừa được ông nhận mặt là mình cũng có tham-gia giúp vui cho ông, vừa
chục phòng khi ông gọi thì nghe mà đến cho nhanh kẻo bị kẻ khác nhanh hơn thì
mất cơ-hội được hầu-hạ ông.
Giám Ðốc Nha Cảnh-Sát
Công-An Trung-Phần, Ô.
Lê Khắc Duyệt, cũng có dự phần vào những buổi
câu cá như thế.
Hôm đó,
Duyệt mặc một chiếc áo sơ-mi cụt tay có in
hình hoa bướm gì đó. Trên đường về nhà ở thành-phố,
Duyệt gặp vài nhân-viên thuộc
Nha, trong số những phần-tử đã vào
Ðảng.
Thuở ấy, xứ
Huế còn rất nệ-cổ. Người nữ phải mặc áo
dài mới được ra phòng khách; các cô giúp việc dù đang làm việc nặng, các chị bàn
hàng-rong dù đang vai gánh hay tay xách, mỗi khi ra đường đều phải mặc áo dài.
Người nam thì phải nhét áo trong quần. Vào thời-gian chuyện này xảy ra,
tuy lối sống đã có đổi mới phần nào, xã-hội vẫn chưa chấp-nhận cho các cá-nhân
“danh-giá”, nhất là các viên-chức cao-cấp trong chính-quyền, dù là vào ngày nghỉ
và lúc đi chơi, bỏ áo ngoài quần, hoặc mặc áo có sọc, có ô, hoặc có in hình mà
người dân địa-phương gọi là “áo chim cò”.
Duyệt
bị báo-cáo lên Văn-Phòng Cố-Vấn.
Vào buổi
“học-tập chính-trị và công dân giáo dục” kế
đó, số nhân-viên dưới quyền Duyệt, nhưng
thuộc đường dây thân-tín hơn, đã nêu vụ kể trên ra để hội đường thảo-luận.
Mặc dù viên Giám-Ðốc của họ đã nhận lỗi, xin lỗi mọi người, và hứa về sau sẽ
không tái-phạm, sau khi đã giải-thích là mình ăn mặc như thế để dễ lội xuống
nước mà bắt cá cho “Cậu”, số nhân-viên ấy vẫn
nặng lời sỉ-vả Duyệt và thúc đẩy các phẩn-tử
khác lên tiếng tố-cáo Duyệt là “thiếu
tác-phong cách-mạng”, “phản nhân-vị”,
“không chịu học-tập noi gương đạo-đức của Ngô
Tổng-Thống”.
Người dân xứ
Huế không quên những vụ tố-khổ
vào những ngày đầu tiên Ô.
Ngô Ðình Diệm lên cầm quyền.
Trong
một cuộc mít-tinh tại chúng-trường Phu Văn Lâu,
một nữ-công-chức thuộc Nha Pháp-Chánh Trung-Phần đã đứng lên trước máy vi-âm xỉ
mặt viên Giám-Ðốc của Nha ấy mà kể tội là trước đó đã từng lợi-dụng chức-quyền
để hãm-hiếp mình...
Quang-cảnh
đấu-tố giống hệt dưới chế-độ
cộng-sản ở Miền Bắc
Việt-Nam.
CÔNG-CHỨC BỊ PHẠT
VÌ VỀ VỚI GIA-ÐÌNH
Có một số công-chức tùng-sự tại
các công-sở ở Huế nhưng có gia-đình ở Tỉnh
Quảng-Trị; cuối tuần họ về ngoài đó với vợ+con.
Nhưng rồi, vào một buổi
trưa ngày cuối tuần nọ, số người ấy đã gặp nạn. Sau đó, họ ngao-ngán kể
lại với bạn-bè:
Ô. Nguyễn Văn Đông
[, Tỉnh-Trưởng Tỉnh Quảng-Trị, đã ra
lệnh chận đường từ hướng Huế ra, bắt giữ tất cả
các công-chức vừa mãn giờ làm việc cuối tuần là để bụng đói phóng xe về với
thân-nhân.
Còn nhớ dưới thời
Việt-Minh, để khuyến-khích phong-trào
Bình-Dân Học-Vụ, có nhiều Xã Thôn đã dựng
cổng kiểm-soát dọc đường; ai biết chữ thì được đi qua cổng chính, ai không biết
chữ thì phải lội vòng xuống ruộng bùn mà đi.
Đông
thì không cho các công-chức ấy đi, về với gia đình, mà cũng không chịu cho họ
quay lui. Ông bắt họ tập-trung tại chỗ, đợi đến sáng ngày đầu tuần mới cho
xe chở họ vào Huế giao nạp cho
Tòa Ðại-Biểu Chính-Phủ
Miền Trung.
Đông
sợ dư-luận đồng-bào về những bê-bối của chính-quyền Tỉnh mà ông cầm đầu có thể
bị các công-chức ở Huế là những tai+mắt ấy
thu-thập đem về phổ-biến, mà không bưng-bít được, vì ở ngoài vòng kiểm-soát của
mình.
Ông là em của một người con
rể gia đình họ Ngô.
LUẬT-PHÁP PHỤC-VỤ
CHO CÁ-NHÂN
Có lần,
Nha Bảo-An Trung-Phần được cơ-quan
Viện-Trợ Mỹ trao cho một số xe Jeep.
Viên trung-tá Giám Ðốc Nha ấy đến báo-cáo với “Cậu”,
xem như đó là một thành-quả “nhờ ơn Ngô Tổng-Thống
và Cậu” mới có được, và chọn một chiếc tốt đẹp nhất đưa đến để xin “Cậu”
lái khai-mào hầu nhờ “Cậu” mà toàn Nha được
hưởng hên.
Chiếu cuối tuần ấy, có một
số giáo-sư Viện Ðại-Học Huế, vốn được
Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình
Cẩn nâng đỡ, và đều là nhân-vật tên tuổi một thời ở thủ-phủ của
Miền Trung, về bãi
Thuận-An tắm bể. Họ lái xe Traction,
chạy vùn-vụt từ bãi biển trở về nhà ở Thành-Phố Huế
vào lúc hoàng-hôn.
Ðồng-thời, từ tư-thất ở
Thành-Phố về nhà nghỉ mát ở bãi bể, Ô.
Cố-Vấn đích-thân cầm tay lái, lái thử chiếc
xe Jeep mới,
của Nha Bảo-An.
Trên con đường lưu-thông
duy-nhất giữa hai địa điểm, mà vào cuối tuần giữa mùa hè nóng bức thì người dân
đi tắm bể tấp-nập, khi ngang qua lãnh-thổ Quận
Phú-Vang, hai xe ngược chiều kể trên gặp nhau.
Xe
Traction thì thấp; xe
Jeep thì cao, mà vì mới xuất-kho nên mặt kính
đèn trước chưa được che bớt phần trên bằng một lớp sơn màu vàng như các xe khác,
và Ô. Cẩn
thì cứ để đèn pha mà chạy. Các nhà học-thức ấy bị chói mắt nên nổi giận,
bèn cũng bật đèn pha, rồi thắng xe lại ngay giữa lòng đường, chận đầu chiếc xe
kia, nhảy ra, xông tới, định dạy cho tài-xế xe Jeep
một bài học. Cùng lúc, Ô.
Cố-Vấn luýnh-quýnh thắng xe lại; các vệ-sĩ
của ông tưởng gặp kẻ khủng-bố nên nhảy ngay xuống, xáo ổ đạn, chĩa mũi súng về
phía đối-phương, sẵn-sàng bấm cò.
Thế là
hai bên nhận ngay ra nhau; các nhà khoa-bảng
(Giáo-Sư Nguyễn Văn Trung và Giáo-Sư Lê Hữu Mục) liền đổi
thái-độ, chắp tay vái “Cậu” liên-hồi.
Sau đó, Tòa Ðại-Biểu
Chính-Phủ Trung-Phần Việt-Nam chỉ-thị cho Nha Công-Chánh Giao-Thông, Nha
Cảnh-Sát Công-An, cùng Tòa Hành-Chánh, Cơ-Quan Quân-Sự, Ty Công-Chánh, Ty
Thông-Tin Tỉnh Thừa-Thiên, Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, Trung Ðội Hiến-Binh
địa-phương, v.v... phải họp tìm biện-pháp tạo sự thoải-mái cho “Cậu”
trên đường đi . Họ bèn quy định, phổ-biến, và kiểm-soát, để từ nay trở đi
mọi loại xe-cộ lưu-thông trên đường Huế―Thuận-An, và ngược lại, chỉ được
phép chạy với tốc-lực tối đa 25 cây số/mỗi giờ; hễ gặp xe khác thì phải ngừng
lại, rồi chạy từ từ; và nhất là buổi tối và ban đêm thì chỉ được bật đèn ló mà
thôi.
Sự việc ông
Cố-Vấn bị chận xe dọc đường thì đã được chính
ông bỏ qua; nhưng vì nó có liên-quan đến “Cậu”,
các nhà chức-trách xem là quan-trọng hàng đầu nên đã đặt thành luật-lệ cho người
dân tuân theo.
MỘT BỮA TIỆC
SINH-NHẬT CỦA “CẬU”
Vào dịp sinh-nhật của Ô. Cố-Vấn
Ngô Ðình Cẩn năm 1958,
một mình tôi nhận được ba tấm thiệp mời dự tiệc; một với tư-cách
văn-nghệ-sĩ ký-giả, một với tư-cách
thành-viên Thuyết-Trình-Ðoàn Học-Tập Chính-Trị và
Công Dân Giáo Dục, và một với tư-cách cấp chỉ-huy ngành Cảnh-Sát &
Công-An.
Trên đầu tờ giấy có in hàng
chữ “Văn-Phòng Cố-Vấn Chỉ Ðạo Các Ðoàn-Thể Cao―Trung―Hải”.
Về các “Ðoàn-Thể”, có nơi ghi rõ là “Chính-Trị, Kinh-Tế, Văn-Hóa, Xã-Hội,
Thanh-Niên, Phụ-Nữ, Sinh-Viên Học-Sinh, Lao-Công, v.v...” Cao là
Cao-Nguyên, Trung là
Trung-Phần, và Hải là Hải-Ngoại.
Ðây là một cơ-hội hiếm có
để tôi có thể trực-tiếp nghe+thấy những gì liên-quan đến “Cậu”,
người mà dân-chúng sợ-hãi như một hung-thần.
Con đường xe lửa xuyên-Việt
nằm ở giữa, ngăn-cách tư-thất của Ô.
Cố-Vấn (phía xuống Cầu
Phú-Cam) với
Văn-Phòng (phía lên nhà thờ) ở bên kia . Lách qua khỏi hai cánh
cổng sắt cao to mở hé, tôi bước vào một thế-giới lạ thường.
Không có
đường dây điện-thoại liên-lạc với bên ngoài. Ô.
Cố-Vấn thường chỉ ở trong tư-thất, và ít có
ai thấy được chữ ký của ông.
Một mái rạp cao được dựng
sát trước hiên nhà, dài suốt ba gian, là nơi bày dọn nhiều dãy bàn ăn. Hầu
hết món ăn đều là món Huế, những loại ngày xưa
dành cho hoàng-gia, triều-thần nhà Nguyễn và
giới thượng-lưu, do chính một số đầu-bếp cũ trong
Ðại-Nội hoặc tại các Phủ Chúa đến nấu
dọn.
Thực-khách được chia ra mời làm nhiều đợt; nhưng có một số đến sớm trước giờ; và
một số ăn xong vẫn còn nấn-ná ở lại, vừa chỉ-dẫn cho những kẻ đến sau để tỏ ra
rằng mình đã là người nhà của chủ-nhân rồi, vừa cầu-may mong có cơ-hội được
“Cậu” hỏi đến.
Mắt mang kính, miệng nhai
trầu, tay cầm quạt khi thì phe-phẩy, khi thì dùng để gãi lưng,
Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình
Cẩn vừa nói chuyện với vài ba nhân-vật
― nhất là ông
Nguyễn Ðình Cẩn, Tỉnh-Trưởng Trưởng Tỉnh
Bình-Thuận, suốt buổi vẫn bám sát theo ông
― vừa đi quanh chăm-sóc từ các loại cây cảnh quý
trước mặt nhà đến các loại muông thú hiếm bên hông và sau vườn, trong đó có một
con voi con.
Hầu-hạ quanh nhà có một số nhân-viên Cảnh-Sát hoặc
Công An. Có một kẻ thường đi dọc theo Đường
Phan-Chu-Trinh và Đường Vạn-Vạn, trên bờ
Nam của “sông An-Cựu nắng đục mưa trong”,
ngang-nhiên chặt cây trên bến, và cả chuối trong vườn nhà dân, nói là để cho voi
của “Cậu” ăn. Nhiều người qua lại trên
Cầu Phú-Cam và trên đường bờ sông
Phan Ðình Phùng có lần trông thấy dưới bến “Cậu”
dùng thìa cà-phê múc sữa đút cho voi uống, trong lúc các thuộc-viên đang kỳ-cọ
tắm cho con voi.
Tôi vừa vào đến nơi thì nghe có tiếng còi xe
hộ-tống hụ từ phía Cầu Phú-Cam.
Ô. Cố-Vấn
quay đầu về phía nhà trong, im-lặng lắng nghe. Lập-tức, có hai thuộc-viên
chạy nhanh ra cổng. Họ thò đầu ra ngoài nói gì đó, rồi nhân-viên gác cổng
mở hé một cánh cổng cho một số quan-chức và một viên tướng bước vào. Tất
cả đều mặc lễ-phục, và đều đi rón-rén vì sợ đế giày gây tiếng ồn.
Về viên tướng, tôi nhận ra là Trung-Tướng
Trần Văn Ðôn.
Hôm mới ra thay Trung-Tướng Thái Quang Hoàng,
năm 1957, trong một buổi lễ tại
Phu Văn Lâu, Ðôn
đã bắt đầu diễn-văn bằng câu “Quân Dân Miền Trung!”
Tôi nghe kể lại, chỉ một lát sau là “Cậu”
được nghe báo-cáo, liền phán “Hắn muốn lãnh đạo cả Dân ngoài ni nữa răng?”
Họ cúi đầu chào Ô.
Cố-Vấn nhưng ông không đáp lại. Họ bèn
nhập chung với một số khác đã đến trước, đứng sắp hàng quay mặt vào bức chân
dung của Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm để trên một
chiếc bàn cao trong phòng khách chính, xong cất tiếng đồng-thanh hát bài “Suy-Tôn
Ngô Tổng-Thống”, như lệ thường mỗi lần bắt đầu một buổi lễ hoặc buổi họp.
Có đến hai bài “suy-tôn”
khác nhau, một của Miền Trung và một của
Miền Nam, nên nhịp và lời của hai bài chõi
nhau, nghe rất chói tai.
Bỗng có tiếng đằng-hắng trong nhà.
Ô. Cố-Vấn
liền nạt:
“Cụ” đây là Bà Ngô-Đình-Khả, mẹ của các
anh+chị+em họ Ngô. Thế là mọi người nín bặt,
lấm-lét tan hàng. Trong lúc họ chưa biết giấu mặt ở đâu thì các gia-nhân
ra hiệu cho họ đứng vào hai bên các dãy bàn tiệc mà bắt đầu ăn.
Lát sau, ông Cố-Vấn đi ngang qua các bàn ăn,
nhìn chung, hỏi chung:
– Ngon không?
– Dạ ngon! “Cậu” cho ăn ngon quá!
Nghe mọi người đồng-loạt khen, ông nở một nụ cười khoan-khoái, xong tiếp-tục đi
ngắm-nghía, sờ-mó không biết chán các món quà đắt giá mà các cấp chức quyền từ
khắp nơi trong nước và ngoài nước dâng về.
Trước mắt tôi, hình-ảnh của “Cậu” Cố-Vấn
Ngô Ðình Cẩn vẫn quen thuộc như những lần ông
chủ-tọa các cuộc thi rước xe hoa vào những dịp lễ lớn trong năm.
Mỗi cơ-quan dân-chính và quân-sự đều thực-hiện một cỗ xe hoa, với nhiều cỡ,
nhiểu kiểu, nhiều cách khác nhau, nhưng tựu-trung thì đều rước ảnh của
Ngô Tổng-Thống và được trang-trí đèn hoa
rực-rỡ vô cùng. “Cậu” đứng trước cổng
nhà, vừa nhai trầu vừa quạt, nhướng mục-kỉnh chiêm-ngưỡng từng công-trình
nghệ-thuật trẩy qua, và dễ dàng đồng-ý với những lời phê-bình cũng như chấm
điểm, định mức thưởng tiền, của các “cố-vấn”
hầu-cận hai bên.
Tự-nhiên tôi thấy ông hiền-lành quá, vô-tư quá. Người như thế này mà có
quyền sinh-sát đối với mọi người sao ?
LỆNH... LẠC
Ngoài ông Chánh Văn-Phòng (Hồ
Đắc Trọng), mà một số người cho là có hiểu biết, còn có một số sĩ-quan
quân-lực được biệt-phái đến làm việc tại Văn-Phòng Cố-Vấn
Ngô Ðình Cẩn. Ông
Hồ Văn Huế, một đồng-nghiệp đàn anh của tôi,
là một tín đồ Ky-Tô có đạo đức, đã có lần
than-thở với tôi:
– Té ra mạnh ai thì nấy báo-cáo lên “Cậu”;
chỉ cần nói khích một câu, tỉ như “Tên này
phản-loạn, dám chống lại Ngô Tổng-Thống và Cậu!” thì nếu đề-nghị giết
chết “Cậu” cũng gật đầu liền. Nhưng
trong đa-số trường-hợp họ có trình lên “Cậu”
đâu !
Quyền-hành của Cẩn tuyệt-đối như thế nên
dân-chúng gọi ông là “Lãnh-chúa Miền Trung”.
Thật ra, quyền-hành của ông cũng bao trùm cả Miền
Nam, là lĩnh địa của ông anh, Cố-Vấn Ngô Ðình
Nhu. Một thi-hữu của tôi, Hồ Ðình
Phương, của Tỉnh Long-An, và một số
thành-viên khác thuộc các phái đoàn từ các Tỉnh trong
Nam ra Huế
họp đại-hội
Ðảng Cần-Lao, đã xác-nhận với tôi điều đó.
Không có học-lực và kiến-thức như các ông Thục,
Diệm, Nhu, Ô.
Cẩn chỉ là một thứ hào-mục hãnh-tiến,
bỗng-nhiên thấy được người ta tôn lên thì được hưởng lợi chứ chẳng thiệt gì, nên
để mặc cho thủ-hạ lèo-lái, vẽ-vời. Ông chỉ đáng khen trong có một việc là
lòng hiếu-kính đối với mẫu-thân, góa-phụ của cụ Ngô
Ðình Khả.
Và chính cụ-bà cũng được nhiều người ngợi-ca vì lòng “trung-quân”.
Người ta kể lại rằng, khi lăng của chồng đã được xây xong, cụ-bà lên ở trên
lăng. Ðức Ðoan-Huy Hoàng Thái Hậu, tức
Ðức Từ-Cung, mẹ của Cựu-Hoàng
Bảo Ðại, thấy cảnh miếu đường hoang-phế mà
không được chính-quyền chiếu-cố, bèn lên gặp cụ-bà để xin nói giúp với anh em
nhà Ngô. Cụ-bà nghe tin, đang bệnh mà
cũng gắng dậy xuống đón từ dưới mấy cấp thềm, toan phủ-phục trước người mà cụ-bà
tưởng vẫn còn là quốc-mẫu nên vẫn thủ-phận
chồng+con mình là bề-tôi của quân-vương.
Ðiều tai-hại hơn hết là không có ai dám kiểm-chứng lệnh của
Ô. Cố-Vấn
Ngô Ðình Cẩn.
Thường thì mọi người chỉ biết tuân lệnh, do nghe kẻ khác nói lại, mà không biết
là nói lại hay là nói đại. Mà do chính miệng của ông nói ra
lắm khi cũng chẳng hẳn là lệnh-lạc gì hết.
Một thí-dụ đầy tính tiếu-lâm được truyền miệng trong giới an-ninh:
Một trong những tay chân đắc-lực của Cẩn là
Ô. Lê Hoát,
Trưởng Ban Hoạt-Vụ thuộc Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần. Mọi việc bắt-bớ,
đọa đày, hãm-hại, v.v... đều nằm trong tay Hoát.
Thế mà...
Dạo ấy ở Tỉnh Quảng-Ngãi có sự rối-loạn.
Ty Công-An liên-hệ điện xin Nha Trung-Phần tăng-cường gấp một số nhân-viên.
Vì Hoát có nhiều nhân-viên nhất nên Phòng
Nhân-Vụ đề-nghị rút bớt một số. Hoát
chỉ cho lấy một người, là người mà Hoát tưởng
là không thiết-yếu vì không thấy đến báo-cáo công-tác hằng ngày. Và người
ấy nhận được sự-vụ-lệnh thuyên-chuyển từ Huế
vào Tỉnh Quảng-Ngãi.
Kế đó, một hôm Ô. Cố-Vấn đi ra sau vườn thì
thấy có một thuộc-viên nằm lăn-lộn trước chân ông mà khóc; ông tránh, người kia
lại tái diễn, khóc to hơn. Ông hỏi vu-vơ:
– Cha mi chết hay răng mà mi khóc dữ thế?
Ðươc ông hỏi đến, người giữ vườn kêu gào thảm-thiết:
– Không phải một mình cha con chết, mà chính con, rồi cả gia-đình nhà con đều sẽ
chết hết, “Cậu” ơi! Người ta không muốn
cho con tiếp-tục ở đây để được hầu-hạ “Cậu”,
“Cậu” ơi!
– Rứa người ta đưa mi đi mô ?
– Việt-Cộng giết người tùm-lum trong Quảng-Ngãi,
mà người ta đưa con vô trong đó!
– Ai đưa mi đi ?
Người ấy vốn đã có đến năn-nỉ với Phòng Nhân-Vụ đề xin ở lại, nhưng được nơi đây
giải-thích là chính Hoát đã quyết định cho
đương-nhân ra đi. Người ấy liền đáp:
– Dạ, Lê Hoát đưa con đi!
Ông Cố-Vấn vừa bước tiếp vừa nói khống:
– Răng hắn không đi mà đưa mi đi ?
Mọi lời nói của “Cậu” đều được truyền đi
tức-thời .
Thế là Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần ký sự-vụ-lệnh khác, để nhân-viên kia lại,
và đưa ... Lê Hoát đi !
Một thời-gian sau, một hôm ông Cố-Vấn sực nhớ
mới hỏi:
– Thằng Hoát mô rồi mà lâu ni tau không thấy
hắn?
Thế là Huát lại được thuyên-chuyển từ Ty
Quảng-Ngãi về lại Nha!
Dân-chúng cũng đàm-tiếu với nhau: Bà Cố-Vấn
Ngô Ðình Nhu, lãnh-tụ Phong-Trào Phụ-Nữ
Liên Ðới và Ðoàn-Thể
Thanh-Nữ Cộng-Hòa
của toàn-quốc, tức là gồm cả Miền Trung,
những lần ra Huế thường tránh gặp mặt “Cậu”.
Trung-Tướng Thái Quang Hoàng, nguyên Tư-Lệnh
Ðệ-Nhị Quân-Khu, mà tổng-hành dinh đóng ở
Huế, vốn là một sĩ-quan sủng-ái được thăng
cấp vùn-vụt, mà rồi cũng bị thất-sủng vì bị dèm pha. Ô.
Trần Chánh Thành, là người được chính
Ô. Ngô Ðình Diệm
chọn đưa từ Pháp cùng về với mình, cử
làm Bộ-Trưởng Bộ Thông-Tin, phụ-trách Chiến Dịch
Tố Cộng và
Phong-Trào Cách-Mạng Quốc-Gia, mà rồi
cũng va-chạm với uy-lực của “Cậu” về quyền
lãnh đạo các tổ-chức và hoạt động này tại Miền Trung...
Tôi tự hỏi không biết có phải chính “Cậu” đã
chủ-động, đã chủ-động nổi, trong các vụ này, hay là bị bọn ác-ôn côn-đồ gài bẫy,
mạo danh...
VỤ GIÁN ÐIÊP PHÁP TẠI MIỀN TRUNG
Sau khi Pháp,
do áp-lực của Mỹ, rút quân ra khỏi
Việt-Nam, một số kiều dân
Pháp vẫn còn ở lại; họ điều-hành các đồn điền
cao-su, cà-phê, trà, và các nhà máy điện, nước, lữ-xá, tiệm ăn, v.v...
Ngoài ra, còn có các nhà ngoại-giao ...
Ở Huế, có một
Phòng Thông-Tin Pháp, mà Giám Ðốc là
Ô. Avril,
một người Pháp lai
Việt, sinh sống từ nhỏ tại Thành-Phố này.
Tôi đã giới-thiệu để Avril làm quen với
Ô. Thompson A.
Grunwald, khi ông này đến nhậm chức Giám Ðốc
Thông-Tin Hoa-Kỳ ở Huế. Trong
lúc chưa có Tổng Lĩnh-Sứ, Grunwald là đại diện Mỹ
đầu tiên đến Miền Trung.
Ðối với dân-chúng địa-phương thì sự quen biết đã có từ trước và những giao-tiếp
không thể tránh được sau này của Avril với
những nửa-đồng-bào xung quanh đã gây tai-họa
không ít cho nhiều con dân Việt-Nam.
Trong chương-trình “đả-thực,
bài-phong, diệt-cộng”, mà “thực” ở đây là thực dân
Pháp, các cơ-quan an-ninh sở-tại cho biết đã
khám-phá được một tổ-chức gọi là “gián điệp Pháp tại
Miền Trung”.
Trong những năm đầu sau Hiệp Ðịnh
Genève 1954,
Liên-Xô và Hoa-Cộng chưa chủ-trương cho Cộng-Sản Bắc-Việt xâm-chiếm
Miền Nam; nhờ đó, đa-số các cấp chính-quyền,
nhất là ở nhiều Xã Thôn, đã có hoàn-cảnh thuận-lợi để loại-trừ các phần-tử có
liên-hệ hoặc bị nghi có dính-líu với ba kẻ thù kể trên.
Trung-Ương cho phép mỗi Xã lập nên một “Hương-Ước”
riêng của mình; đó là những quy định tội-trạng và hình-phạt có giá-trị pháp-lý,
nằm ngoài và bổ-sung luật-pháp và luật-lệ chung của Quốc-Gia. Chính-sách
của Chính-Quyền Quốc-Gia thời Ðệ-Nhất Cộng-Hòa
là phục-hồi “Lệ Làng”, một thứ quyền tự-trị
của các hương-chức thời xưa; đúng với tuc-ngữ “Phép
Vua thua Lệ Làng”. Giải-pháp giàn-tiện hơn hết là trục-xuất tất cả
các đối-tượng “phản động” ra khòi quê-quán
của họ. Nhân dịp có cái gọi là “quốc-sách”
Ấp Chiến-Lược
và
Dinh Ðiền, nhà cầm quyền tống họ lên vùng
Cao-Nguyên, cùng với các thành-phần bất-hảo
khác
― cựu-can hình-sự, đồ đệ “Tứ
Ðổ Tường”, cá-nhân lừng-khừng
―
sống tập-trung chung trong các Ðịa Ðiểm Dinh Ðiền,
là nơi Hoa Kỳ viện-trợ dồi dào để giúp các
giới dân nghèo Việt Nam tái định-cư kiến-tạo
đời sống ấm no, thanh-bình, và thịnh-vượng lâu dài cho tương-lai.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là bề mặt, nhất-thời. Thật ra, ngay sau khi
chính-quyền
Ngô Ðình Diệm
ra đời, những kẻ có liên-hệ
chặt-chẽ với Pháp, với
Hoàng-Tộc, với
Việt-Minh, hoặc bị tổn-thương quyền-lợi cá-nhân, đều đã tìm cách tự-tồn.
Họ trá-hình quy-phục, hoặc ngụy-tạo lý-lịch, đổi vùng sinh-hoạt; hoặc rút lui
vào bóng tối, hoạt động bí-mật; hoặc bất động chờ thời. Cao điểm là sau
khi Mặt Trận Việt-Minh tập-kết cán-bộ và bộ
đội ra Bắc; quân-lực
Pháp giao lại
Miền Nam Việt-Nam cho Mỹ; chế độ
Diệm tịch-thu tài-sản của
Pháp, lật đổ và tịch-thu tài-sản của cựu
Quốc-Trưởng Bảo Ðại, phát động chiến dịch “Tố
Cộng”, đánh dẹp các giáo-phái, đàn-áp các chính đảng, cấm Hoa-Kiều làm
mười một nghề, v.v...
Có những chính-sách đúng, nhưng bị phai mờ vì những
chủ-trương sai; và ngay những đường-lối tốt cũng bị hoen-ố vì những việc làm
xấu. Và thiểu-số lạm quyền đã xử ức người này, trị oan kẻ kia, đào hố sâu
chia-rẽ và giúp nẩy mầm phẫn-uất trong dân-nhân. Hạt nhân đối-nghịch và
khuynh đảo từ đó đã được gieo ra.
Thật ra, người dân căm-hờn thực dân, oán ghét tay sai, thù hận thành-phần thân
Pháp, nên ủng-hộ các nỗ-lực phát-hiện gián
điệp nước ngoài. Nhưng khi chính-viện không truy-tố bị-can ra trước
pháp-viện, lại sử dụng luật rừng để bạo-hành đối với tù-nhân, thì chiêu-bài “Dân-Chủ
Pháp-Trị” của chính-quyền Ngô Ðình Diệm
đã trở thành bịp-bợm đối với người dân.
Vào một buổi sáng nọ, như để chứng-minh cụ-thể cho
những luồng dư-luận lan tràn lâu nay, một số đồng-bào đã tìm đến tận nơi để nhìn
thấy tận mắt thi-thể của một nạn-nhân: Ô.
Võ Côn, cựu Phó Giám Ðốc Cảnh-Sát Công-An
Trung-Việt, bị giết chết và vứt bỏ xác ở chân Núi
Ngự-Bình.
THẦU-KHOÁN NGUYỄN VĂN YẾN
Nhà thầu
Nguyễn Văn Yến là một nhân-vật tên tuổi được đồng-bào khắp
Huế mến thương.
Sau ngày hồi-cư vào năm
1947, Yến bắt đầu thu thuế tại Chợ
An-Cựu là một chợ nhỏ, mà thời-gian đầu
dân-chúng còn thưa-thớt nên chợ chưa có nhiều kẻ bán người mua. Vợ anh
cũng theo giúp chồng. Tuy là chủ thầu nhưng cả hai đều đối xử tử-tế với
giới chịu thuế, nhẹ tay với ai ít vốn, chước-miễn cho ai ít lời.
Nhờ làm việc cần-cù, giao dịch khéo-léo,
Yến đã tiến từ thầu nhỏ lên thầu lớn, và đỉnh
cao là thầu được cơ-sở kinh doanh đồ-sộ của anh+em
Pháp-kiều Morin chính giữa trung-tâm
thủ-phủ của Miền Trung, đặt tên
Nguyễn Văn Yến cho đại Khách-Sạn và Diễn
Ðường này.
Sự thành-công của Yến
là một gai nhọn trước mắt những kẻ muốn chiếm độc-quyền khai-thác hoặc chi-phối
mọi nguồn lợi kinh-tài. Thế là Yến bị bắt.
Vợ Nguyễn Văn Yến
bị bệnh hiểm-nghèo. Sau khi được chữa lành, trước khi xuất-viện chị
đã được y-sư giải-thích và căn dặn kỹ-càng: muốn sống thì đừng gần-gũi đàn ông.
Thương chồng, chị đến gõ cửa khắp nơi; bao nhiêu
tiền của chị đem ra dâng nạp hết, nhưng vẫn không có kết-quả. Cuối cùng,
chị được đưa đến ra mắt Ô.
Cố-Vấn để cầu xin “Cậu”
thi-ân.
Nhờ ân của “Cậu”,
chị chết.
Nỗi đau thương của gia đình
Nguyễn Văn Yến đã trở thành niềm căm-hận của
mọi người: liền sau đó, chính Yến cũng bị
giết chết trong tối-tăm.
THẦU KHOÁN NGUYỄN ÐẮC PHƯƠNG
Là Trưởng-Phòng Huấn-Luyện, trong thời-gian
có Khóa Tu-Nghiệp hoặc
Khóa Anh-Ngữ Căn-Bản do tôi giảng dạy cho
cảnh-nhân toàn Thành-Phố, tôi thường đến sớm để lo cho mọi thứ được chuẩn-bị
sẵn-sàng. Có nhiều lần tôi ngạc-nhiên thấy Hội-Ðường, mới chiều hôm qua
còn ngăn nắp, mà sao sáng hôm sau bàn ghế đã nghiêng lệch và trên nền lầu vương
vãi những lá lót, giấy bọc, cùng nhiều loại thức ăn, đồ uống thừa.
Những lần đầu, tôi nghĩ là do toán nhân-viên gác
đêm bày tiệc ăn nhậu. Ðến lần nọ, tôi vào hỏi Ô.
Đặng Phong, Phó
Cành-Sát-Trưởng ; ông nhìn
Ô. Hồ Đắc Vang,
trả lời tôi: “Ðêm qua, Chi-Bộ họp”. Chi-Bộ là tổ-chức Ðảng; tôi
không ở trong Ðảng, tôi không thể phàn-nàn gì thêm.
Một hôm, nhân vào
Sài-Gòn lập thủ-tục du-học
Hoa-Kỳ, tôi gặp Ô.
Nguyễn Văn Trí giữa phố.
Trí là nhân-viên
Ðội Biệt Ðộng ở Huế; cùng đi với anh
có vài ba người nữa, đang ngồi trong một chiếc xe hơi đậu bên lề đường.
Anh dừng lại chào hỏi tôi. Khi anh lên xe đi rồi, có mấy người mà tôi thấy
quen mặt đang ngồi trong Nhà Hàng “Thanh Thế”
vẫy gọi tôi vào. Họ là công-chức, quân-nhân hoặc thường dân gốc ở
Huế, nay vào tùng-sự, thụ-huấn hoặc sinh sống
trong này.
Nhạc-sĩ Châu Kỳ
ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Ðừng bắt mình, nghe Thanh-Thanh!” Tôi mở
tròn mắt hỏi lại: “Tôi làm gì mà bắt ai?” Nhạc-sĩ
Lê Trọng Nguyễn liền vỗ vai
Kỳ: “Moa tin Thanh-Thanh
chắc không dính vào những vụ đó đâu!”
Hồi đó, Cảnh-Sát và Công-An là hai ngành khác nhau, mà tôi thì ở bên phía
tư-pháp hình-sự, không phải bên phía chính-trị.
Một người hỏi tôi: “Hôm nay các anh đã bắt được
bao nhiêu mạng rồi?” Thấy tôi ngơ-ngác, một người khác nói: “Bọn
hồi nãy là mật-vụ trong Ðoàn Công-Tác Ðặc-Biệt Miền
Trung, vào đây bắt người đấy!”
Tôi cũng có nghe nói đến tổ-chức ấy, nhưng không
biết là họ thuộc cơ-quan nào, vì tại Nha và tai Ty Công-An Tỉnh
Thừa-Thiên thì chỉ có
Ban Hoạt-Vụ, Ban Lưu Ðộng, hoặc
Ban Truy-Tầm gì đó thôi.
Không-khí ở Sài-Gòn
tự do hơn, nên mấy người này tranh nhau kể toàn những chuyện cướp đoạt,
giam-cầm, tra-tấn, và thủ-tiêu dân lành, ở cả Huế
lẫn các Tỉnh gần xa.
Diệm thì huênh-hoang tuyên-bố: “Ðằng
sau Hiến-Pháp còn có tôi!” để bị lũ gian-manh ngụy-tạo vườn cây sây
trái cho mà đến thị-sát, khoe-khoang; Nhu thì
kìm kẹp đối-lập ở P-42; vợ
Nhu thì hùn-hạp làm ăn bất-chính với vợ
Trần Chánh Thành;
Cẩn thì thể-hiện hỏa-ngục ở Mang-Cá,
hồ lửa ở Chín Hầm...
Khi nghe tôi làm việc ở Ty Cảnh-Sát
Huế, một người la lên:
– Ðánh người ta vỡ đầu chết, rồi ném xác xuống sân,
tri-hô là người ta nhảy lầu tự-tử, xong rồi vào đây lánh mặt hả?
Các bạn khác cũng sững-sờ như tôi. Một người
ôn-tồn hỏi tôi: “Anh vào đây bao giờ?” Tôi đáp: “Sáng thứ năm”
Người ấy thở phào: “Thế thì không phải là anh!”
Người kia nhìn tôi dò xét, rồi như tin tôi, kể ngắn
gọn:
– Chúng bắt bừa, nhốt kín nhiều nơi, lâu lâu mới
chở một số đến Ty Cành-Sát cho gặp thân-nhân một lần vào lúc nửa đêm. Tại
đó, chúng cũng khảo đả nạn-nhân. Án-mạng vừa rồi xảy ra vào khuya thứ năm;
tôi mới vào chiều hôm qua; thứ sáu. Tội-nghiệp thầu-khoán
Nguyễn Ðắc Phương!
Tôi nghe mà lặng điếng cả người.
Thì ra Hội Ðường, nơi tôi truyền-bá lý-thuyết
lý-tưởng về nghiệp-vụ, nơi tôi phổ-biến đạo đức chính-trị của Ngô
Tổng-Thống, đã bị dùng làm nơi chà đạp “nhân-vị”
và sinh-mạng của con người!
Trước đó, tôi có gặp
Nguyễn Ðắc Phương một lần, tại nhà Giáo-Sư
Nguyễn Như Minh. Minh là thầy cũ
của tôi ở “Thuận-Hóa Học-Hiệu”. Ông vừa
mới giao cho Phương, và
Phương vừa mới khởi-công xây-cất một trụ-sở
mới cho Trường Trung-Học Tư-Thục Nguyễn Du.
Ngang đây thì tôi thấy Trung-Tá
Ðoàn Ðình Từ, một người bạn thân của tôi,
hiện làm Trưởng Ty Công-An Tỉnh Long-An, từ
ngoài bước vào. Từ bị thương trong một
trận chạm súng với Việt-Cộng, chân đi còn khập-khiễng. Ðể tránh đụng chạm,
tôi kéo anh lên Nhà Hàng “Bồng Lai”.
Lát sau, tôi hỏi anh về nạn độc-tài, tham-bạo; anh lắc đầu thở dài: “Hết nước
nói! Minh chỉ biết diệt Cộng mà thôi!”
VỤ GẠO ƯNG BẢO TOÀN
“Cậu” Cố-Vấn
Ngô Đình Cẩn
đã cùng với chị là
Bà Cả Lễ
(vợ của Ô. Nguyễn Văn Lễ, tên
Ngô Thị Hoàng, con thứ 6
trong số 9 người con của Ô.
Ngô Đình Khả), tổ-chức tiếp-tế
hàng ngàn tấn gạo
cho Cộng-Sản
Bắc Việt.
Trong thời-gian chiến tranh, Việt-Minh
phá-hoại các đường vận-chuyển hàng-hóa
ngang các Tỉnh
Quảng-Nam,
Quảng-Ngãi,
Bình-Định,
Phú-Yên, nên
chính-quyền Quốc-Gia phải dùng đường biển.
Ô.
Nguyễn Văn
Bửu, em Ô.
Cả Lễ, lả chủ của
một đội tàu chuyên-chở hàng-hóa trên con đường biển này, từ
Nam ra
Trung.
Vụ tiếp-tế gạo cho
Bắc Việt này bị
Tòa Đại-Sứ Mỹ
phát-giác vào năm
1956 nên Tổng-Thống
Ngô Đỉnh Diệm
phải ra lệnh truy-tố nội-bọn.
Nhưng, phe nhóm của “Cậu” đã ngụy-tạo thành một vụ buôn lậu gạo, gán tội cho một
thuộc-hạ thân-tín là Ô.
Bùi Quang Sơn, Phó Tỉnh-Trưởng Tỉnh
Quảng-Nam
để
Sơn
làm vật tế-thần. Vì cần củng-cố uy-tín
của
Diệm mới lên làm
Tổng-Thống, nên Tòa kết-án Ô.
Sơn
12 năm khổ-sai.
“Cậu”
Cẩn sợ vì án nặng
mà
Sơn uất-ức khai ra
chính-phạm, nên
Cẩn cầu-cứu ông anh, Tổng-Thống
Diệm. Thế là, dù án-lệnh đã chính-thức
thành-văn, Ô.
Diệm vẫn bắt Tòa
phải xử lại.
“Cậu” Cẩn tráo-trở
bằng cách sử-dụng các bao gạo trống của Bộ Kinh-Tế, có nhãn-hiệu EN (Economie
Nationale= Kinh-Tế Quốc-Gia) để chứng-minh rằng Ô.
Ưng Bảo Toàn
(Tổng-Giám-Đốc Nha Kinh-Tế thuộc Bộ
Kinh-Tế), là thủ-phạm, dẫu cho Ô.
Toàn là người
Miền Nam, chưa hề ra
Miền Trung, không có thân-thuộc ở
Miền Trung, trong lúc
Miền Trung
thì nằm dưới quyền sinh-sát của “Cậu” với
Đảng Cần-Lao
và mọi cơ-cấu
chính-quyền.
Qua sự-việc này, bao che cho Ô.
Ngô Đình Cẩn,
Ô.
Ngô Đình Diệm
đã ngang-nhiên chà-đạp Ngành Tư-Pháp, khống-chế và xử-dụng luật-pháp quốc-gia
như một dụng-cụ riêng.
Và bản án
12 năm khổ-sai
của Ô.
Bùi Quang Sơn
đã được hạ xuống còn
6 tháng tù treo.
Hậu-quả là Ô.
Trần Văn Mẹo
bị mất chức Bộ-Trưởng Kinh Tế, và Ô.
Ưng Bảo Toàn
bị đày ra
Côn-Đảo, cho đến ngày
Cách-Mạng
1-11-1963
thành-công mới
được trở về với
Tự-Do.
*
LÊ XUÂN NHUẬN CHỐNG CHẾ-ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM
VÀO dịp lễ Hai Bà Trưng
(3-3) năm 1960 (mồng 6 tháng 2 âm-lịch
Canh Tý), tôi thuyết-trình về tinh-thần ái-quốc của
Trưng Nữ-Vương, theo tài-liệu học-tập của Ô. Cố-Vấn
Ngô Đình Nhu từ Trung-Ương phổ-biến.
Nguyễn Xuân Lại, lúc ấy cũng đã mãn định-kỳ quân-nhiệm, trở về Ty
Cảnh-Sát Huế, cùng tham dự buổi họp.
Khi đến câu “Quân của Hai Bà là quân ô-hợp nên
bị thất-trận”, tôi đã cố ý bỏ qua từ đoạn “là
quân ô-hợp”. Hội Ðường thắc-mắc; nhiều người đưa ý-kiến là phải đọc
trọn câu, và đòi giải-thích hai tiếng “ô hợp”.
Tôi giải-thích tĩnh-từ “ô hợp”, xong
thanh-minh rằng tôi không muốn trong lúc tưởng nhớ công đức của tổ-tiên anh-hùng
mà lại chê-bai phẩm-chất chiến đấu của tiền-nhân:
– Có lẽ soạn-giả sơ-ý. Theo tôi thì chỉ cần nói “Hai Bà thua trận”
là đủ”, không cần nêu thêm cái lý do ấy, nhất là nói về khuyết nhược của mình.
Vậy đề-nghị các bạn khi về đơn-vị địa-phương thuyết-trình lại cho các học-viên
của mình thì bỏ bớt mấy chữ đó đi .
Ngang đây, Nguyễn Xuân Lại chất-vấn tôi:
– Sự thật là “ô hợp” thì cứ nói là “ô hợp”, anh muốn chống lại lịch-sử và cãi
lại tài-liệu của “Ban Chỉ Ðạo Học-Tập Trung-Ương”
ư ?
Cuộc thảo-luận chung biến thành cuộc tranh-luận riêng giữa hai chúng tôi.
Tôi nói: “Tuy Ban Chỉ Ðạo Trung-Ương do ông Cố-Vấn
Ngô Ðình Nhu chủ-trì, nhưng ông chỉ đề ra ý chính, làm sao kiểm-soát hết
từng chữ?”
– Tôi đã từng thảo diễn-văn cho các Ðơn-Vị-Trưởng,
họ dò rất kỹ trước khi đọc; anh cho là ông Cố-Vấn không đọc kỹ à?
– Tôi cũng đã từng thảo diễn-văn cho các Tướng
Tư-Lệnh, đúng như anh nói. Nhưng đó là cho chính miệng họ đọc ra,
lâu lâu một lần. Ðằng nầy, tài-liệu tổng-quát do nhân-viên phụ-trách soạn
chung cho mọi người, ào-ạt phổ-biến mỗi tuần mấy đợt, trải qua nhiều năm rồi,
thì cũng chỉ giống như tờ báo định-kỳ thông-thường ngoài phố mà thôi, làm sao
tránh khỏi sơ-xuất?
– Nhưng đây không phải là sơ-xuất, mà là nói lên sự thật!
Tôi đáp: “Ðồng-ý là sự thật. Tuy nhiên, đó là ở trường đại-học, nghiên-cứu
sử-liệu chúng ta có thể tìm thấy nhiều điều khác lạ; thí dụ tài-liệu của
Trung-Hoa nói về
Hai Bà Trưng, có đăng trên tập-san của Viện
Ðại-Học Huế, do Linh-Mục Cao Văn Luận
làm Viện Trưởng, thì tàn-tệ hơn nhiều (tôi nêu thí-dụ…). Còn đây thì không
phải là một công-trình nghiên-cứu lịch-sử ở trình độ bác-học, mà chỉ là một bài
học công dân giáo dục nhắm vào đa-số bình dân, cốt để nhân ngày kỷ-niệm
Trưng-Vương mà khích động đồng-bào noi gương
yêu nước của Hai Bà; như thế thì chỉ cần
đề-cập những gì có lợi cho mục đích trước mắt mà thôi”.
– Nói như anh tức là cấp trên khinh thường dân-chúng, chủ-trương ngu dân!
Tôi thấy Nguyễn Xuân Lại đã vô-tình tạo ra
cơ-hội cho tôi lợi dụng mà nói lên những điều cần nói công-khai :
– Ở đây có Ô, Trần Văn Hương,
Cảnh-Sát-Trưởng, vừa đi du-học ở
Mỹ về, đã thấy rõ sự khác nhau giữa
Mỹ với nước mình. Thế nhưng, tài-liệu,
mà chúng ta học-tập ở đây thì nói rằng Hiến-Pháp của Việt-Nam Cộng-Hòa là
tiến-bộ hơn Hiến-Pháp của Hiệp-Chủng-Quốc Hoa-Kỳ, trong lúc Hiến-Pháp của
VNCH thì Quốc-Hội chỉ có một Viện, không có tam-quyền phân-lập, lại cho
Tổng-Thống tái-ứng-cử nhiệm-kỳ thứ 3…
Cũng thế, học-tập về chế độ hiện-tại thì chỉ toàn đề-cao những tốt lành ngay
chính chứ có ai phanh-phui những xấu dữ gian tà
đâu ! [Tôi nêu ra một số dẫn-chứng].
Thế là mọi người bỏ mất trọng-tâm. Hội-Ðường chia ra làm hai phe; đa-số
thì đồng-ý với tôi dẫn chứng từ những sai lầm bất-công đến những gian tham
tàn-ác của nhóm đặc-lợi đặc-quyền; thiểu-số đắc-thời thì chối-cãi, biện-minh.
Không-khí quá găng; chủ-tọa phải tuyên-bố giải-tán. Nhưng khi ra khỏi
phòng họp rồi họ vẫn còn phát-biểu rất hăng.
Việc làm của tôi, vào đầu năm
1960. đã mở đường cho những chống đối công-khai và
đồng-loạt của nhiều tập-thể lớn về sau.
Riêng trường-hợp của tôi đã gây nên mối bất-đồng quan điểm giũa hai ông Cố-Vấn
họ Ngô. Vây-cánh của
Ô. Cẩn thì
muốn dùng biện-pháp mạnh đối với tôi, nhưng Ô.
Nhu thì tiến-bộ hơn nên nương tay. Do
đó, họ giao tôi cho Bộ Nội-Vụ áp dụng kỷ-luật
hành-chánh.
Sau ba tháng bị cất chức, giam cầm, tôi bị ghép vào thành-phần “phản-loạn”
và bị đày lên Cao Nguyên là vùng “nước
độc và nguy-hiểm”, không cho thăng cấp, không cho giữ chức-vụ chỉ-huy,
không cho đi du-học, không cho thuyên-chuyển xuống miền xuôi, và bị sít-sao
theo-dõi về hành-vi chính-trị…, cùng
với bốn đồng-nghiệp khác; đó là hai viên-chức tham-mưu
có uy-tín mà không chịu đứng chung vào hàng-ngũ phá đạo hại đời, và hai
viên-chức hoạt-dịch cũng là tín đồ Ky-Tô-Giáo
và cũng là đảng-viên Ðảng Cần-Lao nhưng không đồng-hội đồng-thuyền với họ nên họ
cũng nhân dịp này mà tống cổ đi luôn.
Suốt đời tôi không bao giờ quên được hình-ảnh của những Giám Ðốc, Trưởng Ty,
công-chức các cơ-quan bạn, mà nhiều người trước kia tôi chưa hề quen, và rất
đông đồng-bào vô danh, đã bất-chấp mật-vụ, lên ga xe lửa
Huế ngậm-ngùi tiễn chúng tôi đi ...
*
Rồi
Diệm bị đảo-chánh hụt, rồi
Dinh Ðộc-Lập bị ném bom.
Vụ các chính-khách bất-đồng chính-kiến họp tại nhà hàng
Caravelle nổ bùng.
Nhà văn Nhất-Linh
Nguyễn Tường Tam tự-tử để phủ-nhận quyền-hành
của chế-độ nhà Ngô.
Phật-Giáo bị cấm treo cờ vào ngày lễ Phật-Ðản;
Phật-Tử Huế biểu-tình đòi quyền tự do
tín-ngưỡng, bị tàn-sát trước Ðài Phát-Thanh.
Diệm+Nhu cho Cảnh-Sát Chiến Ðấu
tấn-công chùa-chiền. Hòa-Thượng
Thích Quảng Ðức và nhiều tu-sĩ, Phật-Giáo-Ðồ
khắp nước tự-thiêu. Sinh-viên
học-sinh và các giới dân-nhân xuống đường; toàn-quốc nổi dậy.
Thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu, Ngoại-Trưởng VNCH,
tự cạo trọc đầu từ-chức để phản-đối Diệm;
ngay chính Ô. Trần Văn Chương, đại-sứ VNCH
tại Mỹ, là cha ruột của bà cố-vấn
Ngô Ðình Nhu, và bà
Trần Văn Chương, quan-sát-viên VNCH tại Liên
Hiệp Quốc, là mẹ đẻ của bà Nhu, cũng cùng
từ-chức để chống lại bè lũ Diệm+Nhu đàn-áp
Phật-Giáo. Chính-giới
Hoa Kỳ phẫn-nộ, dư-luận thế-giới xôn-xao.
Cuộc Cải-Mệnh
1-11-1963 xảy ra.
*
Sau này, tôi chỉ-huy Cảnh-Lực cấp Tỉnh trên
Cao-Nguyên thì
Nguyễn Xuân Lại cũng chỉ-huy Cảnh-Lực ở Tỉnh
Thừa-Thiên.
Một số bạn cũ nói rằng
Lại vẫn trung-thành với quan-niệm sống của mình, cứ theo lý-thuyết sách
vở mà làm; theo đó, Luật-Pháp mới là nguyên-tắc của trật-tự và an-ninh, nên anh
phục-vụ; còn Chính-Trị thì là phi-nguyên-tắc nên anh không tham-gia. Anh
chỉ chú-tâm riêng vào phần Hình-Cảnh, và phó mặc phần Ðặc-Cảnh (có thể gọi là
Cảnh-Sát Chính-Trị) cho viên Phó Chỉ-Huy chuyên-trách cầm nắm các vấn đề phe
đảng, giáo-phái, hội đoàn, tình-hình nội-bộ chính-quyền, cũng như trực-tiếp
giải-quyết với Ủy-Ban An-Ninh về các vụ bắt-bớ. giam cầm Việt-Cộng tại
địa-phương.
Tuy không đối diện, đối-thoại, nhưng qua tin-tức
như trên, tôi vẫn thấy cần tranh-luận với Lại.
Nếu anh chịu nhúng tay vào, thì cơ-quan mà anh vẫn là người chịu trách-nhiệm
chính, chắc-chắn sẽ tránh được nhiều lầm sai. Cùng lắm thì anh vẫn có thể
công-khai nói lên tiếng nói của mình, như tôi ngày xưa ?
Việt-Cộng không bám sát anh, hoặc vì cơ-sở của
chúng hoạt động dở, hoặc do may-mắn tự-nhiên, mà anh thoát chết ở
Huế vào vụ Tết
Mậu-Thân 1968. Anh trà-trộn với
đồng-bào vào trốn trong nhà thờ Dòng Chúa Cứu-Thế;
khi địch đến thanh lọc, anh đưa Thẻ Sinh-Viên
trường Luật ra; chúng không nhận diện ra anh.
*
Chừng nhớ ngày xưa tôi rất ham thích Ngành
Hình-Pháp, Nguyễn Xuân Lại nói:
– Mình không ngờ Nhuận
mà lại qua Ngành Ðặc-Cảnh.
Tôi định đáp: “Mình cũng không ngờ Lại mà lại
tham-chánh”, nhưng tôi nín kịp.
Một người bạn thân khác của tôi, thi-sĩ
Như Trị, tức Luật-sư
Bùi Chánh Thời, cũng có quan-niệm như
Lại. Nhưng
Thời không tham-chính; anh hoạt động vì nhân đạo, cầm đầu chi-nhánh của
một tổ-chức quốc-tế Bảo-Vệ Thiếu-Niên Nhi Ðồng tại
Việt-Nam.
Mỗi người có quyền theo đuổi lý-tưởng riêng của
mình. Tôi tôn-trọng quyền ấy. Nhưng vì
Luật-Pháp tự nó không có Tổ-Quốc, nên chính-thể nào cũng dựa trên
Luật-Pháp nói chung để làm ra Luật-Pháp của riêng mình. Trong một
Quốc-Gia, vào một giai đoạn nào đó, phải chăng Luật-Pháp cũng chỉ là sản-phẩm
của Chính-Trị? Người đã tham-gia vào Chính-Quyền, nhất là ở cương-vị lãnh
đạo, làm sao không dự phần vào chính-sách chung?
Lại được mời làm Thứ-Trưởng một Bộ. Dù là của Bộ
Tư-Pháp đi nữa, thì đó cũng là một phần của Ngành Hành-Pháp, và đó cũng là một
trách-vụ chính-trị. Anh nói là anh chưa nhận, tức là đã nhận trên
nguyên-tắc, chỉ còn cân-nhắc một số điều-kiện nữa mà thôi ?
Bị ám-ảnh vì bóng ma quá-khứ, tôi sợ là anh sẽ lại
rơi vào hai trường-hợp khó-khăn: Lý-thuyết siêu-chính-trị có thoát khỏi
bị guồng máy chính-quyền biến-thể? Và nhập-cuộc nửa vời có phải là
giải-pháp an ổn cho lương-tâm?
Thà Lại chỉ là
luật-sư, hoạt động ngoài-chính-quyền như Thời,
đứng hẳn về phía đối-lập trong dân-nhân, hoặc chỉ là huấn-sư trong một trường
Luật, hoặc công-khai đối-lập trong các chức-vụ
lập-pháp và dân-cử... Ðằng này,
trong cương-vị công-cử, nếu gặp nghịch-cảnh,
thái độ của anh sẽ như thế nào ...
Tuy nhiên, lịch-sử cũng đã sang nhiều trang; cả
Nguyễn Xuân Lại
lẫn tôi, cũng như mọi người, đều đã lớn hơn, khôn hơn. Trên đường
tiến tới Dân-Chủ, dân-nhân Miền Nam Việt-Nam đã bước những bước khá dài.
Ít nhất thì, ngày xưa, hễ thiếu kính-trọng đối với
Ngô Ðình Diệm là cầm chắc cái chết trong tay; nhưng, ngày nay, mọi người
đều tự do chỉ-trích, thậm-chí mạt-sát, Nguyễn Văn
Thiệu mà không hề-hấn gì. Giới trí-thức phải hiểu rằng tài-năng,
đạo đức, thiện-chí, và kết-quả phục-vụ là những yếu-tố cần-thiết để thẩm định
giá-trị của một con người. Ðã giỏi Luật-Pháp, mà cũng rành về Chính-Trị
và các Ngành khác, hoặc ngược lại, thì tài-năng mới không phiến diện; và
đã tham-gia thì phải dấn thân, có thế đạo đức mới vẹn toàn.
Tôi bắt tay Nguyễn Xuân
Lại thật chặt, để mừng anh, và để truyền đạt qua anh niềm tin của tôi
rằng bạn mình bây giờ nhất định đã tiến rất xa ...
Huế, 1973-75
GHI THÊM:
Vào khoảng cuối thiên-niên-kỷ trước, tôi gặp lại
Nguyễn Xuân Lại
tại một buổi sinh-hoạt của Cựu CSQG Miền Bắc California ở
San Jose.
Lại
cho biết là anh vừa được Cựu Tống-Thống
Nguyễn Văn Thiệu
mời hợp-tác trong một chương-trình tranh-đấu cho
Quốc-Gia.
Tôi không biết nói gì, chỉ thành-tâm chúc anh thành-công mà thôi.