QUỐC SÁCH ẤP CHIẾN LƯỢC
Học Mót của người, Nh́n Lạm của ḿnh
(Anh đă thực-hiện tại Mă-Lai, Pháp đă áp-dụng tại Bắc-Việt)
Đă có “Bí-Quyết” mà vẫn “Quyết Bí”
(Suốt 8 năm trời [1954-1961] mà không chấp-hành,
măi đến tháng 2-1962 [cận ngày 1-11-1963] mới đem ra khoe)
Có một số người cho rằng Chương-Tŕnh Ấp Chiến-Lược đă giúp chính-quyền Ngô Đ́nh Diệm b́nh-định xứ-sở, triệt-tiêu cộng-sản, đem lại đời sống an-b́nh cho dân-nhân Miền Nam dưới chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Ḥa; và “cha đẻ” của Chương-Tŕnh được gọi là Quốc-Sách ấy chính là Cố-Vấn Ngô Đ́nh Nhu (sic).
Theo họ th́ sau cuộc Cách-Mạng 1-11-1963, v́ Trung-Tướng Dương Văn Minh đă hủy bỏ quốc-sách Ấp Chiến-Lược nên cộng-sản mới có thể dễ-dàng lấn chiếm và đánh thắng Miền Nam (sic).
Sự Thật là “Ấp Chiến-Lược” bị hủy-bỏ bởi Sắc Luật số 103/SL/CT, do Thủ-Tướng Nguyễn Khánh kư ngày 9 tháng 3-1964 (xem Tham-Chiếu 1).
Để các thế-hệ sau này hiểu biết chính-xác về thực-chất của Chương-Tŕnh Ấp Chiến-Lược, ta hăy t́m đọc các tài-liệu lịch-sử ‒ mà các cá-nhân nói trên đă không biết đến, hoặc đă cố-ư không đề-cập đến mà c̣n tự-ư thêm-thắt bịa-đặt ra ‒ hầu bắt mọi người phải nghe những lời ca-tụng vu-vơ dựa trên những điều không hề xảy ra.
*
Nhưng, trước tiên, tôi xin nói về những ǵ mà chính bản-thân tôi biết được về Ấp Chiến-Lược.
*
Từ năm 1954, nhất là sau khi Đức Quốc-Trưởng Bảo Đại bổ-nhiệm và Ông Ngô Đ́nh Diệm đă nhậm chức Thủ-Tướng Quốc-Gia Việt-Nam, việc làm của tôi quá nhiều và quá “quan-trọng”.
Vừa là biên-tập-viên (góp bài cho “Tuần-Báo Tiếng Kèn”; viết “Mục Thời-Luận”, trả lời “Thư Thính-Giả”, soạn bài “Quân-Nhân T́m Hiểu”, giới-thiệu tân+cổ Nhạc Việt-Nam và “Nhạc Ngoại-Quốc” hằng ngày cho Đài Quân-Đội; tóm-lược t́nh-h́nh cho nhật-báo “Bản Tin”; viết bài phóng-thanh cho “Đại-Đội Vơ-Trang Tuyên-Truyền”; viết các bài b́nh-luận đặc-biệt để Trưởng Pḥng Năm Quân-Khu sử-dụng tại các nơi khác; thảo diễn-văn cho các Tư-Lệnh Quân-Khu; làm tuyên-truyền-viên lưu-động; làm phóng-viên chiến-tranh (war correspondent); thuyết-tŕnh tại các buổi “Học Tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục”, v.v..., tôi c̣n là giám-đốc Chương-Tŕnh Phát-Thanh hằng ngày “Tiếng Nói Quân-Đội” ‒ cho khắp Đệ-Nhị Quân-Khu (từ Tỉnh Quảng-Trị vào Tỉnh B́nh-Thuận, tức là cả Quân-Khu I lẫn Quân-Khu II sau này).
Công-việc quá nhiều đến nỗi tôi được chỉ-định mà không thể đến giảng môn “Tác-Động Tinh-Thần” (tiền-thân của Tâm-Lư-Chiến tức Chiến-Tranh Tâm-Lư, và về sau là Chiến-Tranh Chính-Trị) tại “Trường Sĩ-Quan Đập Đá” (nơi xuất-thân của thiếu-úy ‒ về sau là trung-tướng ‒ Trần Văn Trung), cũng như tại lớp đào-tạo “T́nh-Báo Ấp Chiến-Lược” ở gần vùng Phủ Cam.
Việc làm quá “quan-trọng” ‒ góp phần tích-cực và hữu-hiệu củng-cố địa-vị của (Thủ-Tướng rồi Tổng-Thống) Ngô Đ́nh Diệm ‒ đến nỗi Bộ Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu đă đề-nghị Bộ Tổng-Tham-Mưu ban thưởng cho tôi “Quân-Công Bội-Tinh” ‒ là một huân-chương chỉ dành cho các sĩ-quan tràn-đầy chiến-công và dạn-dày thâm-niên, trong lúc tôi chỉ là một quân-nhân trừ-bị ‒ “văn-nghệ-sĩ và kư-giả” mà được “động-viên chuyên-môn” (như các nhạc-sĩ Lâm Tuyền, Văn Giảng, Lê Trọng Nguyễn, v.v... trong Ban Tân-Nhạc thuộc Đài của tôi). Tuy không được cấp mề-đay, nhưng việc đề-nghị như thế chứng-tỏ Miền Trung đă đánh giá tôi “cao” đến ngần nào.
Nhắc lại chuyện cũ dài-ḍng là để nhấn mạnh một điểm: trong khoảng 1954-1956 (2 năm nhiệm-kỳ quân-dịch pháp-định cộng với 6 tháng lưu-dụng v́ nhu-cầu quân-vụ) của tôi, đă có ít nhất là một Lớp Đào-Tạo cán-bộ “T́nh-Báo Ấp Chiến-Lược” được mở ra tại Huế.
Tóm lại, “Ấp Chiến-Lược” đă có nằm trong chương-tŕnh hoạt-động của chính-quyền Ngô Đ́nh Diệm, do Cố-Vấn Hoa-Kỳ, đặc-biệt là Đại-Tá CIA Edward G. Lansdale (xem Tham-Chiếu 2) đề ra, chậm nhất là từ năm 1956 rồi.
*
Thế nhưng...
Măi đến ngày 3 tháng 2 năm 1962 (8 năm sau ngày chấp-chánh), sau khi chế-độ đă suy-thoái rồi, Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm (và Cố-Vấn Ngô Đ́nh Nhu) mới áp-dụng Chương-Tŕnh “Ấp Chiến-Lược” (xem Tham-chiếu 3)
*
Năm 1962, tôi được đưa đi thụ-huấn một khóa t́nh-báo đặc-biệt (là khóa cao-cấp đầu tiên mà CIA huấn-luyện cho một số viên-chức Cảnh-Sát Công-An, Phó Đốc-Sự Hành-Chánh, và sĩ-quan Quân-Lực VNCH được chọn-lọc kỹ). Sau đó, tôi được sung vào một tổ-chức, về phía dân-sự, gọi là “Đoàn Công-Tác Đặc-Biệt” (SOC= Special Operations Corps) ‒ không phải là “Đoàn Công-Tác Đặc-Biệt Miền Trung” của Cố-Vấn Ngô Đ́nh Cẩn do Ông Dương Văn Hiếu cầm đầu ‒ . Đoàn SOC này, trực-thuộc Phủ Đặc-Ủy T́nh-Báo Trung-Ương về mặt chuyên-môn, và được sự yểm-trợ của Nha Tổng-Giám-Đốc Cảnh-Sát & Công-An về mặt hành-chánh, hoạt-động bí-mật, dưới thời Đại-Tá Nguyễn Văn Y, là người kiêm-nhiệm cả hai chức-vụ đứng đầu Phủ ĐUTBTƯ và Tổng Nha CSCA. Đoàn gồm có nhiều Đội. Riêng Đội của tôi (tôi là Phụ-Tá Điều-Hành kiêm Phiên-Dịch-Viên) th́ hoạt-động tại Cao-Nguyên Trung-Phần, có trụ-sở riêng, đóng tại Ban Mê Thuột, bên trong là “Đội Khảo-Cứu Địa-Lư”, bên ngoài là “Pḥng Cảnh-Sát Tư-Pháp” (sở-dĩ dùng ngụy-danh này là v́ trước đó tôi là Trưởng Pḥng Cảnh-Sát Tư-Pháp tại Nha Cảnh-Sát Công-An Cao-Nguyên Trung-Phần ‒ hồi đó tuy mặc dân-phục nhưng tôi đă đến tận các phạm-trường chấp-lư các vụ phạm-pháp, nên đă có người biết mặt, biết tên).
V́
là “khảo-cứu
địa-lư”
nên tôi phải nắm vững t́nh-h́nh nông và sơn-thôn,
trong đó có các Địa-Điểm
Dinh Điền,
các Khu Trù
Mật, và
nhất là các Ấp
Chiến Lược
vừa mới bắt đầu thành-h́nh trong năm 1962.
Đồng-thời, v́ là công-tác t́nh-báo, lần đầu
tôi có cố-vấn CIA. Do đó, với óc t́m-ṭi, tôi
đă có dịp đọc được bản gốc tài-liệu
tiếng Anh về “Ấp
Chiến Lược”,
đặc-biệt là nguồn gốc của nó, cùng
với những kinh-nghiệm, ưu+khuyết-điểm
của Ấp
Chiến-Lược
rút được từ thực-tế thi-hành trước
đó tại các nước Mă
Lai và Phi
Luật Tân.
I
Tóm-tắt
về Ấp Chiến-Lược
Người
được công-nhận như một “Tổng Giám
Đốc Điều Hành” của Chương-Tŕnh Di-Dân
Lập Ấp (nguyên-lai của Ấp
Chiến-Lược)
trên b́nh-diện quốc-tế là Sir
Robert Thompson,
một sĩ-quan
không-quân và là một chuyên-gia chống-khuynh-đảo
của nước Anh.
Ông được cử làm Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng
Thường-Trực cho nước Mă-Lai,
thực-hiện hữu-hiệu sáng-kiến làng-xóm
tái-định-cư
(Village Resettlement) của Tướng Gerald
Templer của Anh
trong việc đánh dẹp Bộ-Đội Giải-Phóng
Dân-Tộc Mă-Lai (MNLA= Malayan National Liberation Army) của đảng
cộng-sản Mau
Mau tại nước
này, từ cuối thập-niên 1940 đến thập-niên
1950.
Nguồn:
http://en.wikipedia.org/wiki/Robert_Grainger_Ker_Thompson
và http://en.wikipedia.org/wiki/Malayan_Emergency
Về Việt-Nam,
có nhiều tài-liệu liên-quan, nhưng tôi tạm lấy
một tài-liệu được xem là công-tŕnh sưu-tập
và biên-khảo đứng-đắn mới nhất
từ Văn-Khố Việt-Nam
tại Viện Đại-Học Texas
Tech (Vietnam Archive, Texas
Tech University), để tóm-lược
dưới đây.
Nguồn:
http://www.vietnam.ttu.edu/events/2002_Symposium/2002Papers_files/peoples.htm
The
Use of the British Village Resettlement Model in Malaya and Vietnam, 2002
(Việc sử-dụng kiểu-mẫu của Anh
về Tái Định-Cư Xă Ấp tại nước Mă
Lai và nước Việt Nam):
Tại
Việt-Nam,
từ 1952 đến
1954, tướng
Pháp
Francois Linares
đă cho tái-định-cư khoảng 3 triệu người
Việt
ở Miền
Bắc, đặc-biệt
vùng đồng-bằng sông Hồng-Hà,
vào các “làng được bảo-vệ” mà họ
gọi là “nông-thị”
(agroville) tức là thị-trấn ở nông-thôn, tức là
“Khu Trù-Mật”.
Đó là chính-sách “b́nh-định bằng sự
phồn-thịnh”.
Pháp
cung-cấp
dồi-dào các tiện-nghi
xă-hội và kinh-tế, bảo-vệ và khuyến-khích
lập các lực-lượng bán-quân-sự để
tự-vệ, dựa vào nguồn tài-trợ sớm
nhất của Hoa
Kỳ cho Pháp
sau khi xảy ra chiến-tranh Triều-Tiên.
Phóng-viên chiến-tranh tên-tuổi Bernard
Fall, sau khi
đến thăm 2 khu kiểu-mẫu tại Khôi
Lộc
thuộc Tỉnh Quảng-Yên
và Đông
Quan tại
Tỉnh Hà-Đông
(Miền
Bắc) đă
tuyên-bố rằng “các Ấp
Chiến-Lược
của Pháp
này rập
đúng khuôn-mẫu của
Anh bên
Mă-Lai.”
II
Các
chương-tŕnh di-dân lập-nghiệp
1/
“Ấp
Chiến-Lược”
(giai-đoạn
1): gom
dân tại
chỗ, rào ấp tại chỗ.
Tại
các vùng nông-thôn hay sơn-cước, dân-chúng cư-ngụ
rải-rác và đi làm việc tùy-tiện, nên
cộng-sản có thể liên-lạc, di-chuyển từ nhà
này qua nhà khác, một cách dễ-dàng, để tuyên-truyền,
ḍ-hỏi tin-tức, thu+mua vật-liệu, xây-dựng cơ-sở,
lợi-dụng nhân-lực (ép-buộc đi phá cầu, phá
đường, chôn ḿn, kể cả tham-gia tấn-công
đồn bót), rủ-rê hoặc bắt-cóc đi theo
họ (nếu chống-đối th́ họ giết
chết...). Chương-tŕnh “Ấp
Chiến Lược” quy-tụ dân-chúng vào một
khu nhà tập-thể, có rào và hào bao quanh, có cổng vào/ra
chung, ở đó trai-tráng được cấp vũ-khí
thay phiên canh gác, sáng mới mở cổng ra ngoài làm
việc, chiều tối về nhà đóng chặt cổng
lại. Cộng-sản không thể vào Ấp tiếp-xúc
hay huy-động dân. Các Ấp như thế sẽ có tác-dụng
như một dăy đồn tiền-phương cho các
quận-lỵ xung quanh thị-xă. Nếu bị tấn-công
th́ dân trong Ấp tự ḿnh chống-lại, báo-động
cho Quận để lực-lượng Quận sẽ
đến tiếp-cứu. Mục-đích là để
giữ dân cũng như tài-nguyên khỏi lọt vào tay
đối-phương, có tính chiến-thuật
(về mặt quân-sự:
cầm-cự tạm-thời để chờ viện-binh).
V́
“Ấp Chiến-Lược” có
một diện-tích nhỏ hơn diện-tích của
một Ấp thông-thường, và phải được
lập tại một vị-trí thuận-lợi về
mặt giao-thông, nên tuy gom dân “tại chỗ” (tức là
trong làng, trong quận sở-tại mà thôi) nhưng đa-số
dân cũng phải rời bỏ nhà-cửa vườn-tược
của ḿnh.
2/
“Địa Điểm Dinh Điền”
(giai-đoạn 2): di dân, khai
hoang, lập ấp.
Tài-liệu
chính-thức nói rơ là “điều-ḥa
dân-cư: di-chuyển (đến những tỉnh khác,
miền khác) những nông-dân thiếu đất canh-tác
ở miền Trung-Châu
Trung-Phần,
những công-nhân không chuyên-nghiệp khiếm-dụng
ở các đô-thị, một số ít người di-cư
tị-nạn v́ lư do ǵ chưa được an cư
lạc nghiệp như đại-đa-số người
di-cư khác, cựu chánh-trị-phạm, cựu binh-sĩ
đang cần trở lại đời sống b́nh thường
nhưng không có phương tiện, đồng-bào vượt
tuyến, Hoa-kiều tị-nạn và Việt-kiều
hồi-hương chưa có cơ sở làm ăn, một
số đồng-bào Thượng, để giúp cho
họ sống đời định cư, định canh,
hưởng những điều kiện cải tiến dân
sinh.”
“Địa-Điểm
Dinh Điền”
cũng là một khu tập-trung, nhưng so với “Ấp
Chiến-Lược
“ th́ “Địa-Điểm
Dinh
Điền”
rộng lớn hơn, dân-số đông hơn, nhà cửa
thoáng hơn, sinh-hoạt có tổ-chức hơn, vừa làm
nghề cũ đă có từ quê-hương cũ, vừa
học và làm nghề mới do chính-quyền
huấn-luyện và trợ-cấp tại quê-hương
mới. Nhân-lực nhiều hơn, phương-tiện
dồi-dào và tân-tiến hơn (có cả nông-cơ),
lực-lượng tự-vệ mạnh hơn, có thể
cầm-cự với địch lâu hơn.
Nói
chung là di-chuyển
dân đi xa hơn, tái-định-cư, khai-phá đất
mới, sản-xuất quy-mô hơn,
có tính chiến-lược
(tự-pḥng),
chú-trọng cả về kinh-tế,
văn-hóa,
xă-hội,
tiến
tới tự-túc
để sẽ sáp-nhập vào nền hành-chánh địa-phương.
Người
dân, thuộc nhiều gốc-gác khác nhau, bỏ hẳn nhà
cửa, họ-hàng, mồ-mả tổ-tiên, đến
lập một cuộc sống mới tại vùng đất
mới khai-hoang.
3/
“Khu
Trù Mật”
(giai-đoạn 3): định-cư,
lập-nghiệp
(Dinh Điền
lư-tưởng).
Khi
nào có Địa-Điểm Dinh
Điền
nào “có những khu gia-cư khang-trang (nhà cửa có sân, vườn
cây ăn trái, chuồng nuôi gia-súc), có khu công-sở (trụ-sở
Hội-Đồng Quản-Trị, nhà hộ-sinh, nhà phát
thuốc, giếng nước, trường học, pḥng thông-tin,
chùa, nhà thờ, chợ, bến xe đ̣, v.v...), có
đường sá, cầu cống, kinh lạch để
tiện việc giao-thông” tức là không những tự-túc
mà c̣n tiến lên phồn-thịnh,
th́ sẽ được nâng lên cấp “Khu
Trù Mật”.
Dân-cư
tại “Khu
Trù Mật”
nổi bật là chung gốc-gác (địa-phương,
chính-kiến, tín-ngưỡng).
III
Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa Thực-Hiện Thế Nào
Trong
những năm đầu của nền Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa,
liền sau Hiệp-Định Geneva
1954,
đa-số cán-bộ/bộ-đội cộng-sản
từ Miền
Nam
phải tập-kết ra Miền
Bắc,
số ít cơ+cán CS gài lại th́ phải nín thở
đợi lệnh ‒ đồng-thời
cộng-sản ở Miền
Bắc
th́ từ rừng-núi mới về tiếp-thu thành-thị
th́ phải chăm lo tái-thiết, cải-tạo, ổn-định
t́nh-h́nh sau cuộc chiến-tranh, rèn cán chỉnh quân, nên
chưa đủ sức quấy rầy Miền
Nam ‒
trong lúc đó th́ ở Miền
Nam dân
Việt
ghét
Pháp
và
cũng không yêu Bảo
Đại,
chính-quyền của Thủ-Tướng rồi
Tổng-Thống Ngô
Đ́nh Diệm nhờ
có Hoa
Kỳ
ép Pháp
rút quân, và giúp dẹp yên các phe đối-lập,
nhận được viện-trợ của Mỹ
dồi-dào
và có hoàn-cảnh ngưng bắn thuận-lợi nên đă
tóm gọn được các phần-tử
cộng-sản lộ-diện, củng-cố chế-độ
và thực-hiện các chương-tŕnh phục-vụ
đồng-bào. Người dân Miền
Nam
nhờ đó đă hưởng được nhiều năm
khá b́nh-yên, đầy hy-vọng vào tương-lai.
Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa
lợi-dụng thời-cơ, đốt giai-đoạn, xếp
bỏ kế-hoạch
“Ấp
Chiến-Lược”
(giai-đoạn 1), bỏ lơ các ấp nông-thôn & sơn-thôn,
tiến lên xây-dựng các “Địa-Điểm Dinh
Điền”
(giai-đoạn 2) kể từ năm 1957.
Mục-đích
nêu ra (xem phần
II đoạn 2 trên kia)
thật là tốt-đẹp, chính-đáng, cụ-thể,
cấp-thời.
*
Hồ-sơ
tài-liệu tóm-tắt mà tương-đối đầy-đủ
nhất về thành-tích hoạt-động của Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa
là cuốn “Thành-Tích
SÁU NĂM HOẠT-ĐỘNG CỦA CHÁNH-PHỦ VIỆT
NAM CỘNG H̉A”
Kỷ-Niệm Đệ-Lục
Chu-Niên
Chấp-Chánh của Tổng-Thống Ngô-đ́nh-Diệm
và Ngày Quốc-Khánh 26-10-1960
(cuốn này đă được Ông Hồ
Đắc Huân,
cựu SVSQ khóa 2 Hiện dịch Nha
Trang,
hiện ở Little
Saigon,
Hoa-Kỳ,
in lại trong năm 2007).
Ngẫu-nhiên,
năm 1960
cũng là năm “bản lề” giữa thời-kỳ
“thành-công” 6 năm đầu và thời-kỳ
“thất-bại” 3 năm sau của triều-đại Ngô-Đ́nh,
như tôi đă ghi trong bài “Năm
1960 đối với Đệ-Nhất Cộng-Ḥa”.
*
Nói
chung, từ
1954 đến
1960:
*Cấp
1 (“Ấp
Chiến Lược”):
Chưa thực-hiện (đến 1962
mới
bắt đầu);
*Cấp
2 (“Địa-Điểm
Dinh Điền”):
Đă thực-hiện từ 1957;
*Cấp 3 (“Khu Trù Mật”): Mới bắt đầu thực-hiện từ 1960.
IV
Nguyên-Nhân
Thất-Bại
Tôi
bị chế-độ Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa
cất chức, quản-thúc, rồi đày đi khỏi Huế
lên Cao-Nguyên
Trung-Phần (vùng
“nước độc và nguy-hiểm”), đến Ban
Mê Thuột
vào tháng 8 năm 1960.
Hồi đó các Nha cấp Phần có quyền
“tự-trị” địa-phương (chưa bị khép
vào khuôn-khổ như khi hợp-nhất Cảnh-Sát
với Công-An thành Cảnh-Sát Quốc-Gia theo Sắc
Lệnh số 146/NV ngày 27-6-1962,
hai năm về sau). Giám-Đốc
Nha Công-An & Cảnh-Sát Cao-Nguyên Trung-Phần này là Thiếu-Tá Nguyễn
Văn Luận
(về sau thăng cấp, làm Tiểu-Khu-Trưởng
kiêm Tỉnh-Trưởng Tỉnh B́nh-Định,
rồi Giám-Đốc
Cảnh-Sát Đô-Thành Sài-G̣n và bị tử-thương trong vụ trực-thăng
bắn nhầm vào bộ chỉ-huy hành-quân ở Quận 5 năm 1968),
có thành-lập một bộ-phận đặc-biệt (hoạt-động
bên ngoài) riêng của Nha này, do Ông Nguyễn
Hữu Liêm
(về sau là Trưởng-Ty CSQG Tỉnh Darlac)
chỉ-huy, gồm có Pḥng An-Ninh Chính-Trị, Pḥng
Cảnh-Sát Tư-Pháp, và Đội Biệt-Kích. Biệt-Kích
th́ đi lùng diệt cộng-sản khắp Cao-Nguyên.
An-Ninh
Chính-Trị do Ông Nguyễn
Giang
phụ-trách, Cảnh-Sát Tư-Pháp do tôi, Lê
Xuân Nhuận
đảm-đương (nhưng hai chúng tôi làm việc
chung với nhau, cả chính-sự lẫn h́nh-sự).
Thoạt
tiên, tôi được phái về điều-tra các
vụ bê-bối tại Địa-Điểm
Dinh-Điền
Kiến-Phúc
(?) phía nam quận-lỵ Kiến-Đức
của Tỉnh Quảng-Đức
(hồi đó Quận-Trưởng là Đại-Úy Nguyễn
Văn Thanh).
Từ
một vụ nhỏ là dân-chúng bị buộc phải
nạp phí-tổn chụp h́nh, mặc dù việc thầu
nhiếp-ảnh (cũng như mọi khoản chi-tiêu khác
của Phủ
Tổng-Ủy Dinh-Điền)
đă được Hoa-Kỳ đài-thọ cho “Ngân-Sách
Quốc-Gia”.
Rồi nhân dịp có “cấp cao” (từ Phần
xuống thấu Tỉnh, Quận) đến làm sáng-tỏ
nỗi oan của người dân nghèo, nhiều đơn
khiếu-nại về những vụ khác, lớn hơn,
đă được đồng-bào nạp thêm... .
Cho
đến một hôm tôi đi từ Ban
Mê Thuột
vào Dinh-Điền ấy th́ bị Việt-Cộng phục-kích
(tôi bị lật xe, găy một xương vai và hai xương
sườn), các vụ tiếp theo được giao cho các
bạn khác điều-tra...
*
Nói
chung là Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa
(thật ra là chính Tổng-Thống Ngô
Đ́nh Diệm
và Cố-Vấn Ngô
Đ́nh Nhu)
tại Miền
Nam
đă thực-thi Chương-Tŕnh Di-Dân Lập-Ấp này
theo cách mà các nhân-vật
tên-tuổi một thời
đă ghi như sau (xem thêm ở phần Tham-Chiếu
4)
Họ Ngô quan-niệm người dân chỉ đóng một ít tiền thuế mà được thụ-hưởng biết bao lợi-ích, nên khi cần dựng các khu tập-trung, Địa-Điểm Dinh Điền, th́ phải góp phần cùng với chính-quyền, phải dùng công-sức của ḿnh mà tham-gia phát-triển cộng-đồng. Người dân th́ bị lao-động không lương theo lối dân-công của cộng-sản, phải cung-ứng thêm vật-liệu, phải đóng góp tiền, và chịu đựng các tệ-nạn; đi ra làm việc trễ hơn và phải trở về sớm hơn, cộng với đường đi xa hơn; nên việc sản-xuất cũng như tinh-thần giảm-sút rơ-ràng.
V
Chương-tŕnh “Dinh Điền”
Một
“Phủ
Tổng-Ủy Dinh Điền”
được thành-lập vào ngày 23-1-1957,
được tổ-chức như một Bộ, nhưng
lại được đặc-biệt đặt dưới
quyền điều-khiển trực-tiếp của
Tổng-Thống.
Nội-các
của Tổng-Thống Ngô
Đ́nh Diệm
gồm có 14 Bộ, nhưng lại có đến 16
tổ-chức (Phủ Tổng-Ủy, Phủ Đặc-Ủy,
Nha Tổng-Giám-Đốc, Phái-Đoàn, Cuộc,
Học-Viện, Nha) trực-thuộc
Tổng-Thống;
trong số các cơ-sở trực-thuộc này th́ “Phủ
Tổng-Ủy Dinh-Điền”
được xếp đứng đầu, tức là
ưu-tiên trên hết mọi lănh-vực hoạt-động
khác của chính-quyền.
Tại
Vùng
liên-hệ (như Cao
Nguyên Trung-Phần)
có một Quản-Đốc
Dinh-Điền
kiểm-tra đôn-đốc việc thi-hành các
chỉ-thị của Trung-Ương và đặc-biệt
phụ-trách các vấn-đề an-ninh trong Vùng; tại Tỉnh
có một Trưởng-Khu
Dinh-Điền;
và tại mỗi Địa-Điểm Dinh-Điền có
một Địa-Điểm-Trưởng
(dân-chúng gọi là “Ông
Địa”).
Về việc thi-hành, ngân-sách do quỹ quốc-gia đài-thọ,
các thủ-tục chi-tiêu và thanh-toán theo đúng nguyên-tắc
của Ngân-Sách
Quốc-Gia.
“Trong
năm 1957-58
(năm đầu), phong-trào di-dân dinh-điền ồ
ạt quá, rồn rập quá và gần như không có
chuẩn-bị đầy-đủ, kết-quả có
bề rộng mà chưa có bề sâu,
th́ năm 1959-60
phải nói là
công cuộc Dinh-Điền đă được
thực-hiện theo một kế-hoạch đă
được nghiên-cứu rất kỹ-càng.
Những địa-điểm thành-lập trong các năm
sau đều đă tiến-triển như mong muốn
nhờ có thời-giờ chuẩn-bị, có hoàn-cảnh chọn-lựa
kỹ địa-điểm cũng
như di-dân
và các cơ-cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có
trớn lại thêm có kinh-nghiệm sống trong công-tác,
đă hoạt-động một cách hữu-hiệu...” và
“Đă đưa họ đến những
vùng đồng ruộng bao-la không có người khai-thác
hết
ở miền Nam,
và những
vùng đất cao
thuộc miền Đông
Nam-Phần và
Vùng Cao-Nguyên
Trung-Phần đất rộng người
thưa”
và, ngoài việc canh-nông thông-thường và các nghề
tiểu-công-nghiệp, c̣n “sản-xuất gai và ki-náp, phát-động
phong-trào trồng cây cao-su, thí-nghiệm trồng nhiều cây
kỹ-nghệ khác như bông vải, thuốc lá, ...”.
Tính
đến ngày 26-10-1960,
về tổng-số Địa-Điểm
Dinh-Điền
đă được thành-lập: năm 1957 là 16, năm
1958 là 32, năm 1959 là 36, năm 1960 là 42, tổng-cộng là
126
Địa-Điểm.
Tại Cao-Nguyên
Trung-Phần,
nhiều nhất là ở Tỉnh Pleiku,
rồi đến Tỉnh Darlac,
xuống đến Tỉnh Quảng-Đức.
Tại Đất
Cao Miền Đông Nam-Phần và
Nam
Trung-Phần,
nhiều nhất là ở Tỉnh B́nh-Tuy,
rồi đến Tỉnh Phước-Long,
xuống đến các Tỉnh B́nh-Long,
Phước-Thành,
Long-Khánh,
Tây-Ninh,
Ninh-Thuận,
B́nh-Dương,
Phước-Tuy
và Phú-Yên...
.
Nói
về số lượng Dinh
Điền
th́ ở Tỉnh Pleiku
là nhiều nhất, có đến 25 Địa-Điểm,
kế đến là ở Tỉnh Darlac
với 22 Địa-Điểm; riêng ở Tỉnh Quảng-Đức
có 7 Địa-Điểm.
Sau
ngày Cách-Mạng
1-11-1963,
tôi làm Trưởng-Ty Cảnh-Sát Quốc-Gia Tỉnh Quảng-Đức.
V́
Hội-Đồng
Quân-Nhân Cách-Mạng,
do Trung-Tướng Dương
Văn Minh
cầm đầu, chưa ổn-định xong t́nh-h́nh
nội-bộ các tướng và nội-các mới ngay
ở Sài-G̣n,
đâu thể nghĩ ǵ đến các... Địa-Điểm
Dinh-Điền xa-xôi,
nên đa-số dân tại nhiều Dinh-Điền
tự-động kéo nhau bỏ về quê xưa.
Chính
tôi đích-thân đứng ra tại các ngă ba, nhất là Daksong
ở Quận Đức-Lập
(nơi từ các hướng Quận Kiến-Đức
trên Quốc-Lộ 14 và Quận Khiêm-Đức
trên Liên-Tỉnh-Lộ 9 thuộc Tỉnh Quảng-Đức
nhập vào để lên Ban
Mê Thuột,
hầu dùng Quốc-Lộ 21 mà về Quốc-Lộ 1
ở Nha-Trang
ḥng
ra Miền
Trung)
để chận họ lại. Về phương-diện
Cảnh-Sát Hành-Chánh, di-chuyển đi xa mà không xin phép,
tức là phạm tội ǵ đó nên phải trốn-tránh
sau khi có biến-cố lớn xảy ra, nên tôi cho bắt
một số cầm đầu để hỏi lư-do.
Qua
cuộc điều-tra & phối-kiểm, tôi biết
đại-khái như sau:
Họ
là dân gốc các Tỉnh Quảng-Trị,
Thừa-Thiên,
Quảng-Nam,
Quảng-Ngăi,
B́nh-Định
(phía Bắc
Trung-Phần).
Trong công-cuộc phát-triển
cộng-đồng,
cải-tiến
dân-sinh,
(mục-đích tốt-đẹp) chính-quyền Ngô
Đ́nh Diệm
đă thực-hiện nhiều chương-tŕnh không
phải song-song với nhau mà lại cḥng-chéo lên nhau. Thí-dụ:
Phủ
Đặc-Ủy Công-Dân-Vụ
coi về Phát-Triển Cộng-Đồng, Tổ-Chức Làng
Mạc, bằng cách tổ-chức
Hội-Đồng Xă, các đoàn-thể
nhân-dân (các Hội; các Ban; các Câu-Lạc-Bộ; các
Nghiệp-Đoàn, các Hợp-Tác-Xă,
các Hiệp-Hội
Nông-Dân;
các Đoàn Nông-Dân Cách-Mạng
Quốc-Gia,
Đoàn Thanh-Niên CMQG, Đoàn Phụ-Nữ CMQG, Đoàn
Thiếu-Nhi CMQG, Thanh-Niên
Cộng-Ḥa,
Thanh-Nữ
Cộng-Ḥa,
v.v...), huấn-chính
(huấn-luyện chính-trị) nhân-dân, phối-hợp
với các lực-lượng quân-sự
và an-ninh
để trấn-an
nhân-tâm
(riêng tại các tỉnh Miền
Trung và
Cao-Nguyên
th́
tham-gia hành-quân
tuần-sát,
chiến-dịch “Tố
Cộng”,
Dân-vận, Thượng-vận, v.v...), vận-động nhân-dân
đóng-góp, tính
đến 1960, là 23,840,320 nhân-công
và 144,210,686.00 tiền
mặt;
huấn-luyện Trưởng
Ấp, Liên-Gia-Trưởng,
công-dân giáo-dục, chủ-nghĩa
Nhân-Vị;
tổ-chức meeting,
biểu-t́nh,
liên-hoan văn-nghệ; bắn
chết,
bắt
sống, và
vận-động
cán-bộ VC về đầu-thú;
kêu gọi thanh-niên trốn quân-dịch theo VC quay trở
về; phát-giác
VC nằm vùng và các phần-tử tiếp tay;
vận-động nhân-dân khám-phá cơ-sở kinh-tài,
tịch-thu vũ-khí của VC; hướng-dẫn
nhân-dân
lập khu trù-mật, làng kiểu-mẫu; tham-gia quy
thôn, quy
ấp;
sửa chữa nhà cửa, sửa đập, đắp
đê, đào mương, làm vườn ương cây,
phát thuốc, sửa pḥng đọc sách, dựng cḥi phát-thanh,
kiểm-tra dân-số,
tổ-chức
Liên-Gia Tương-Trợ;
hướng-dẫn nhân-dân trồng-tỉa, chăn-nuôi, làm
tiểu-công-nghệ; huấn-luyện cán-bộ Thú-Y, làm
chuồng và hướng-dẫn chăn nuôi; tổ-chức
các lớp văn-hóa bổ-túc; v.v... Nghĩa là Phủ Đặc-Ủy
Công-Dân-Vụ dẫm
đạp lên
công-tác của các Bộ Nội-Vụ,
Quốc-Pḥng,
Thông-Tin,
Quốc-Gia Giáo-Dục,
Y-Tế,
Lao-Động,
Canh-Nông,
Công-Chánh và
Giao-Thông,
Điền-Thổ
và Cải-Cách Điền-Địa,
v.v... .
Phủ
Đặc-Ủy Công-Dân-Vụ
cũng dẫm
đạp lên cả
Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền,
Phủ Tổng-Ủy Hợp-Tác-Xă
và Nông-Tín,
Nha Tổng-Giám-Đốc Xă-Hội,
Nha Tổng-Giám-Đốc Thanh-Niên,
v.v... là những cơ-quan cũng cùng trực-thuộc
Tổng-Thống...
.
Đó hẳn là một trong các lư-do chính-yếu tại sao cả loạt Tổng-Trưởng & Bộ-Trưởng do chính Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm bổ-nhiệm đă xin từ-chức.
Cũng cần ghi thêm là chính Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm đă đích-thân ngồi trên phi-cơ trực-thăng đi quan-sát địa-thế và dùng ba-tông chỉ vào các nơi mà ông muốn thành-lập Dinh-Điền tức Khu Trù-Mật về sau. Nhưng những người thi-hành, thay v́ làm dấu tọa-độ chính-xác trên các bản đồ, đă chấm một số khu rừng có nhiều gỗ quư (cẩm-lai, trắc, gụ, v.v...) để cho nhà thầu khai-thác lấy tiền bỏ vào túi riêng.
Đó cũng là lư-do tại sao chương-tŕnh “Ấp Chiến-Lược” đă bị bỏ quên suốt 8 năm trời (1954-1961), v́ Ấp Chiến-Lược không khai-phá rừng sâu, không có gỗ quư!
Tổng-Giám-Mục Ngô Đ́nh Thục cũng khai-thác rừng theo kiểu đó. Trong bài “Chín Năm Bên Cạnh Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm - Mạn đàm với cựu Đổng Lư Quách Ṭng Đức”, Ông Lâm Lễ Trinh đă viết: “Về tin đồn Đức cha Thục làm kinh tài (khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail, v.v...), ông Đức cho rằng TT Diệm tin TGM Thục không làm điều ǵ sai quấy, ngài phải kiếm tiền nuôi sống trường Đại học Đà Lạt do Ngài thành lập.”
*
Trở
lại với vụ đồng-bào Dinh-Điền
bỏ về làng cũ sau ngày Cách-Mạng
1-11-1963:
Chính-quyền
Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa
nói chung đă dùng chiêu-bài “Đả-Thực,
Bài-Phong, Diệt-Cộng”
để đẩy đa-số dân quê vào bước
đường cùng: các chức-sắc làng th́ là tàn-tích
Bảo
Đại
phong-kiến,
mấy cậu học-sinh có bằng “xép-xi, đép-xi” th́
là tay-chân của Pháp thực-dân,
bà-con họ-hàng gần/xa của các cán-binh Việt-Minh
th́ là cơ-sở cộng-sản
nằm vùng; những kẻ lừng-khừng không chịu
sốt-sắng tham-gia “Phong-Trào
Cách-Mạng Quốc-Gia”
th́ là phản-động; và cả thành-phần lè-phè th́
bị liệt vào bốn giới “tứ
đổ tường”
(cờ-bạc, rượu-chè, hút-xách, dâm-ô); đều
bị “đấu-tố”
liên-miên, qua các buổi meeting, các cuộc biểu-t́nh, các
lớp “học-tập chủ-nghĩa
Nhân-Vị,
đạo-đức
cách-mạng của Ngô Tổng-Thống”,
các đợt “Tố
Cộng”;
để rồi cuối-cùng, nếu không bị
giết,
th́ “được” đưa
đi Dinh-Điền (tức
là trục-xuất ra khỏi địa-phương,
một cách lưu-đày).
Ngẫu-nhiên
hầu hết họ là tín-đồ Phật-Giáo.
Và nhân cơ-hội gọi là “Phật-Giáo
đă lật đổ được Nhà Ngô”,
dân các Dinh-Điền Darlac
đă ùa theo nhau trở về quê cũ, nên các
đương-nhân từ các Địa-Điểm ở Quảng-Đức
này cũng kéo nhau đi.
Tôi
có báo-cáo lên trên; nhưng Nha CSQG Cao-Nguyên Trung-Phần,
nhất là Tổng-Nha CSQG, chắc không nhận được
lệnh ǵ rơ-ràng trong lúc t́nh-h́nh toàn-quốc, đặc-biệt
Thủ-Đô Sài-G̣n,
c̣n đang căng-thẳng sau cuộc chính-biến, nên không
trả lời.
Thế
là Chương-Tŕnh Dinh-Điền
tự-động kết-thúc, không cần lệnh-lạc
của ai.
VI
Các
“Khu Trù-Mật”
Có
một số người lẫn-lộn thứ-tự ra
đời giữa “Dinh Điền”
và “Khu
Trù-Mật”. Tôi viết rằng “Khu
Trù Mật” có sau “Dinh
Điền” v́ các lư-do sau đây:
Trong cuốn Thành-Tích Sáu Năm
(1954-1960) là tài-liệu chính-thức
của Đệ-Nhất Cộng-Ḥa, nghĩa là tính đến
ngày 7-7-1960, không
có báo-cáo là đă thành-lập một “Khu
Trù Mật” nào cả, mà chỉ nói
là đang “tổ-chức
các địa-điểm
(Dinh-Điền
thành-lập
từ năm
1957)
thành một đơn-vị có thể trở
nên về sau một
“Khu
Trù-Mật”
có những khu gia-cư khang trang...” và măi đến 3 tháng
sau, vào ngày 3-10-1960
th́ Tổng-Thống Ngô
Đ́nh Diệm
mới đọc thông-điệp tại Quốc-Hội
rằng “Trong số 19 khu trù-mật dự-trù cho năm 1960,
17 khu đă khánh-thành...”
Như
trong báo-cáo của Phủ
Tổng-Ủy Dinh-Điền
đă có nói rơ (trong cuốn “Thành-Tích
Sáu Năm Hoạt-Động của Chánh-Phủ Việt
Nam Cộng Ḥa”,
1960): “Có thể nói trong năm 1957-58,
phong-trào
di-dân dinh-điền ồ ạt quá, rồn rập quá
và gần như không
có chuẩn-bị đầy đủ,
kết quả có bề rộng mà chưa có bề sâu, th́
năm 1959-60
phải nói là công
cuộc Dinh-điền
đă được thực
hiện
theo một kế
hoạch đă được nghiên cứu rất kỹ càng.
Những địa-điểm thành lập hơi vội vàng
trong năm
đầu
đă được lần lần củng
cố và cải tiến.
Những địa-điểm thành lập trong
các năm sau
đều đă tiến
triển như mong muốn
nhờ có thời
giờ chuẩn bị,
có hoàn
cảnh chọn lựa kỹ địa-điểm
cũng
như di-dân
và các cơ cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có
trớn lại có thêm
kinh nghiệm sống trong công-tác,
đă hoạt động một
cách hữu hiệu.”
(trang 22)
Đó
là nói về Dinh-Điền,
nhưng theo những ǵ tôi đă t́m hiểu tại
chỗ th́ đoạn báo-cáo trích trên có thể được
“hiểu” và “viết” như sau:
“Trong
năm 1957-58,
phong-trào
di-dân dinh-điền ồ ạt quá, rồn rập quá
và gần như không
có chuẩn-bị đầy đủ,
v́: về địa-điểm th́ Trung-Ương chưa
chọn đủ nhiều; về quê-quán th́
lẫn-lộn cả dân Miền
Nam lẫn
dân Miền
Bắc di-cư;
về nghề-nghiệp th́ lẫn-lộn nhiều ngành khác
nhau; về chính-trị th́ lẫn-lộn giới được
chính-quyền khen với giới bị chính-quyền chê;
về văn-hóa th́ lẫn-lộn
các tín-ngưỡng khác nhau;
v.v... Sau đó, đă được lần lần củng
cố và cải tiến:
đồng-bào tín-đồ Ky-Tô-Giáo
được các linh-mục hướng-dẫn tách riêng;
những ai được chính-quyền xem là đă
“tốt” rồi cũng được chiếu-cố
nhiều hơn; và các tay nghề ngành nào th́ được
đưa vào cảnh-trí thích-hợp với ngành ấy hơn...
nhờ có thời
giờ chuẩn bị,
có hoàn
cảnh chọn lựa kỹ địa-điểm
cũng
như di-dân
và các cơ cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có
trớn lại có thêm
kinh nghiệm sống trong công-tác,
đă hoạt động một
cách hữu hiệu.”
Cho
nên chính-quyền “tổ-chức các địa-điểm
(Dinh-Điền)
thành một đơn-vị có thể trở nên về
sau một Khu
Trù-Mật
có những khu gia-cư khang trang...” (trang 15).
Như
thế chứng-tỏ là “Khu
Trù-Mật”
“cao cấp” hơn “Địa-Điểm
Dinh-Điền”
nhờ được chọn
lựa kỹ địa-điểm
cũng
như di-dân.
“Khu
Trù-Mật”
là “Dinh-Điền
lư-tưởng”
vậy.
Ngay
việc đặt tên cũng đă nói lên điều
đó: toàn Tỉnh chỉ có một Khu
Dinh-Điền bao gồm nhiều Địa-Điểm
Dinh-Điền, trong lúc mỗi một địa-điểm
như thế trong Tỉnh mà được nâng lên
loại-hạng trù-mật th́ được gọi là Khu
Trù-Mật (mỗi Tỉnh có nhiều Khu
Trù Mật).
Kết-quả:
kể từ 1960,
Chương-Tŕnh “Khu
Trù-Mật”
ra đời. Theo Thông-Điệp của Tổng-Thống
Việt-Nam Cộng-Ḥa
Ngô
Đ́nh Diệm
đọc tại Quốc-Hội ngày 3 tháng 10 năm 1960
th́ “Trong số 19 khu trù-mật dự-trù cho năm 1960, 17
khu đă khánh-thành...”
Riêng các “Khu Trù-Mật” của đồng-bào Ky-Tô-Giáo La-Mă, do các linh-mục cai-quản th́ tiến-triển nhanh và phát-đạt nhất, và c̣n tồn-tại lâu dài...
VII
Ấp
Chiến-Lược
Phủ
Tổng-Ủy Dinh-Điền đă được thành-lập
từ ngày 23-1-1957, trong lúc “Ấp
Chiến-Lược”
th́ phải đợi đến năm 1962
(8 năm sau
ngày TT Ngô Đ́nh Diệm
chấp-chánh) mới được chính-thức ra đời
(như đă nêu trên).
Phủ
Tổng-Ủy Dinh-Điền th́
trực-thuộc Tổng-Thống, mà lại được
nêu trước tiên, trên mọi cơ-quan chính-quyền (và
các Khu Dinh Điền ở Tỉnh
th́ được tự-trị). C̣n “Ấp
Chiến-Lược”
th́ chỉ là một bộ-phận phụ-thuộc của
Bộ Nội-Vụ (và chỉ có một Pḥng tại Ṭa Hành-Chánh
Tỉnh) mà thôi.
Cho nên “Ấp Chiến-Lược” không có mặt, nên không đóng góp một chút “công-trạng” ǵ vào các thành-tựu được kể, và chỉ có, vào những năm đầu (1954-1960) của nền Đệ-Nhất Cộng-Ḥa.
*
V́ cả 3 chương-tŕnh đều có di-dân, và mỗi “Ấp (Chiến-Lược)” hay “Địa-Điểm (Dinh-Điền)” hay “Khu (Trù-Mật)” đều có hàng rào kẽm gai và hào hố bao quanh (mặc dù mức-độ, tầm-vóc, và chủ-đích khác nhau), cho nên từ năm 1962 trở đi dân-chúng gọi chung là “Ấp Chiến-Lược”.
Và sau 1975 th́ “Ấp Chiến-Lược” được một số người kể công (ma) trong việc “ngăn-chận cộng-sản xâm-lăng”.
*
Và khi trả lời phóng-viên báo Toronto
Globe and Mail,
hồi đầu
năm 1963 và
được in lại trong Nguyệt
San Gió Nam,
Ông Nhu
đă xác định rơ ràng:
“Tôi phải
nói ngay rằng Chủ
Thuyết Nhân Vị
của
tôi...
Hiện nay cái học
thuyết Nhân Vị
mà tôi
cổ vơ
là một nền dân chủ đấu tranh trong đó
tự do không phải là món quà của Ông Già Noel, nhưng
mà là kết quả của một cuộc chinh phục
bền bỉ và sáng suốt trong đời sống
thực tế, không phải trong một khung cảnh lư tưởng
mà trong những điều kiện địa lư chính
trị đă được định sẵn. Chính cái
quan niệm về tự do nầy đă khai mào cho toàn
bộ chương tŕnh ACL. Hệ thống Ấp
Chiến Lược
nầy sẽ làm thay đổi cơ cấu chính trị
thượng tầng của chính phủ hiện tại...
(sic)” (5-5-1963, tr.68)
Trong bức điện-văn gửi Bộ Ngoại-Giao Hoa-Kỳ
vào ngày 19-9-1963, Đại-Sứ
Mỹ Cabot Lodge đă kể:
“Nhu
nói thật nhiều, lập đi lập lại rằng
ông
ta
đă sáng tạo ra các ấp chiến lược,
rằng ai
cũng bảo, kể cả người Mỹ,
rằng ông
ta sẽ
không làm nổi được đâu,
song
ông
ta
vẫn đă làm được”
(Nguồn: FRUS, vol.
IV,
129).
Mặc dù các tài-liệu của Phương Tây cho thấy là “Ấp Chiến Lược” bắt nguồn từ Anh ở Mă Lai và Mỹ ở Phi Luật Tân, và cả Pháp ở Miền Bắc Việt-Nam, đồng-thời tài-liệu của Phương Đông cũng cho thấy là từ Triều Nguyễn của chính Việt-Nam (Đại Nam Thực Lục đă ghi: Tiểu Phủ Sứ Nguyễn Tấn [1820-1871] đă áp-dụng kế-sách gom dân lập ấp pḥng-thủ như thế từ năm 1863 trong việc đánh dẹp thành-công người Mọi Đá Vách ở Tỉnh Quảng-Ngăi), nhưng Ông Ngô Đ́nh Nhu vẫn tự cho là, và tự-hào rằng, ḿnh đă sáng tạo ra nó.
Tuy nhiên, nỗ-lực một cách tuyệt-vọng của họ Ngô đă diễn ra trong một hoàn-cảnh ngày càng bất-lợi kể từ sau năm 1960. Trước hết, Đại-Tá (nay là Thiếu-Tướng) Edward G. Lansdale, người khách-tại-gia mà là bảo-trợ-viên vừa là tri-kỷ vừa là ân-nhân của TT Ngô Đ́nh Diệm đă rời khỏi ông từ cuối năm 1956 rồi. Trước đó, phía Mỹ có 2 khuynh-hướng: b́nh-định bằng sức mạnh Quân-Sự, và b́nh-định bằng thế mạnh Kinh-Tế. Nhưng cả hai đều liên-quan đến An-Ninh: Quân-Sự để tái-lập An-Ninh, và An-Ninh để phát-triển Kinh-Tế. Lansdale thiên về kinh-tế (bảo-vệ cho dân an-cư lạc-nghiệp th́ được ḷng dân); Diệm cũng nhắm vào kinh-tế (kiểm-soát để dân không theo Cộng-Sản th́ dân trung-thành với ḿnh ‒ cho nên từ năm 1957 đă đốt giai-đoạn, thực-thi chương-tŕnh “Dinh-Điền”). Nhưng giữa Lansdale và Diệm vẫn có một chút bất-đồng (ngoài cái tỷ-lệ phiếu bầu cho Diệm trong cuộc “Trưng Cầu Dân Ư” mà Lansdale gợi ư là nên thấp hơn cho khả-tín hơn, nhưng Diệm không nghe), một chút mà là một trời một vực: cũng cùng một việc cải-tiến dân-sinh mà theo Lansdale th́ việc đó làm cho dân quê thấy rằng Diệm yêu-quư dân quê, mà theo Diệm th́ việc đó làm cho mọi người thấy rằng dân quê mang ơn Diệm nên tuân-phục Diệm. Lúc đó Mỹ cũng đă có hướng về phản-du-kích-chiến, b́nh-định nông-thôn, song le viện-trợ Hoa-Kỳ th́ vẫn kèm theo đ̣i-hỏi chính-quyền Đệ-Nhất Cộng-Ḥa thực-thi dân-chủ, điều mà Diệm & Nhu vẫn măi chối-từ. Sau cùng, Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm và Cố-Vấn Ngô Đ́nh Nhu quay qua nhờ sự cố-vấn của Sir Robert Thompson, Trưởng Phái-Bộ Anh BRIAM (British Advisory Mission) là nguời chủ-trương sử-dụng tim-óc thay cho bom-đạn; thế nhưng quan-niệm về tim+óc th́ vẫn bất-đồng giữa hai bên. Ngoài ra, một mặt th́ cộng-sản đă mạnh hơn, một mặt th́ đồng-bào đă bất-măn hơn, trong khi Đồng-Minh Hoa-Kỳ th́ lạnh nhạt với Nhà Ngô hơn.
Tôi đă đến thăm ban ngày, cũng như ngang qua ban đêm, một số “Ấp Chiến-Lược”, dọc theo quốc-lộ 14 tại Cao-Nguyên Trung-Phần, từ Tỉnh Darlac xuống Tỉnh Quảng-Đức.
Lư-thuyết,
và cả nh́n thấy, th́ thật khả-quan. Nhưng Dân
Vệ Ấp chận xe xét người qua lại trước
đường hơn là đề-pḥng du-kích lén lút sau rào;
và khi lúa chín, đáng lẽ sáng mai th́ dân ra gặt, đêm
nay dân phải ở lại trong Ấp, cộng-sản
ở ngoài tự-do gặt hớt tay trên. Lính Quận
chỉ có một đường đến Ấp;
cộng-sản đánh Ấp th́ hẳn gài ḿn, đào
hố, đắp mô, tạo chướng-ngại-vật;
lính sợ phục-kích nên không hoặc chậm đến
nơi; đến nơi th́ “sự
đă rồi”.
Cộng-sản quả thật có bị thiệt-hại, nhưng do các hoạt-động khác, nhất là chiến-dịch “Tố Cộng”, chứ không phải do “Quốc-Sách Ấp Chiến-Lược”, bởi lẽ giản-dị là rừng núi bao-la, ruộng rẫy mênh-mông, cộng-sản lội suối băng đồng, chứ đâu chỉ có đi trên các đường dẫn đến Ấp hay Địa-Điểm hay Khu nào đâu mà bảo là “quốc sách” (chiến-lược) ấy đă chận đường tiến quân của họ từ bưng vào thành, từ Bắc vào Nam. Hơn nữa, người dân vẫn phải ra ngoài (ruộng-đồng, rẫy-rừng) làm việc, dù là ban ngày, th́ cũng vẫn bị cộng-sản tiếp-xúc, ḍ tin, móc nối, thu mua. Một khi cộng-sản đă quyết “nhổ” một “chốt” nào th́ họ lập hẳn sa-bàn, tập-dượt kỹ-lưỡng, rồi dùng lực-lượng áp-đảo (người và vũ-khí), hễ đánh là thắng chớp-nhoáng, lính Quận không tiếp-ứng kịp, lương-thực vẫn bị cướp đi, súng-ống lấy được của ta ngày càng làm giàu cho kho vũ-khí của đối-phương.
Tướng Huỳnh Văn Cao, trong quyển “Một Kiếp Người”, đă viết: “Đối với chương tŕnh Ấp Chiến Lược, với tầm mắt của tôi th́ xem ra t́nh thế đă quá trễ, phần quốc gia lại chưa chuẩn bị kịp. Hơn thế, với các đơn vị chính quy lớn của VC th́ Ấp Chiến Lược sẽ bị tiêu diệt hoặc sẽ trở cờ theo chúng. Có một số người biện minh rằng nhờ Ấp Chiến Lược th́ VC sẽ không bắt lính được, và phá vỡ hệ thống nằm vùng của VC. Tôi buồn cười v́... VC điều nghiên kỹ lưỡng, đem lực lượng mạnh đến tấn công rồi lùa thanh niên đi... C̣n nói đến việc nằm vùng th́ ngay tại Phủ Tổng Thống, tại các cơ quan trung ương VC c̣n có thể nằm vùng được huống thay là trong Ấp Chiến Lược”.
Ông Roger Hilsman, Thứ-Trưởng Ngoại-Giao đặc-trách Viễn-Đông của Hoa Kỳ, sau khi đến thăm Việt Nam nhiều lần, đă trả lời phỏng-vấn về Ấp Chiến Lược như sau: “Nếu lập một Ấp sát vùng an-ninh rồi dùng nơi đó làm vết dầu loang dần dần mở rộng lănh-thổ an-ninh, th́ là một chuyện. Đằng này, Ông Nhu tự quyền lập Ấp giáp ranh Cao Miên, trong tầm rảo bộ của các tiểu đoàn chính-quy VC trú-đóng thường-trực ở đó: dân Ấp không phải là lính chính-quy, mà đẩy họ vào địa-thế chiến-lược quân-sự, song không có lính bảo-vệ cho họ, th́ kết-quả sẽ ra sao?” (Nguồn:)
http://www.gwu.edu/~nsarchiv/coldwar/interviews/episode-11/hilsman1.html
Nói chung, “Ấp Chiến-Lược”, dù cho số lượng ít hơn Ấp thật ngoài đời (hằng vạn), nhưng nếu đă được thành-lập đúng cách và sớm-sủa hơn th́ chúng cũng vẫn sẽ là một dăy tiền-trạm, nếu không tự-vệ th́ cũng là một vành đai báo-động, bao quanh các Quận, góp phần không ít cho việc quốc-pḥng. C̣n “Địa-Điểm Dinh Điền” hay “Khu Trù-Mật” th́ lại quá ít (chỉ hơn một trăm), mỗi một đơn-vị đứng riêng một góc, như một ốc-đảo, không đáp-ứng được nhu-cầu đề ra. Trong lúc đó, các Ấp c̣n lại ngoài đời (hằng vạn) suốt 8 năm qua vẫn là hành-lang giao-liên, thông-tin, tiếp-tế, tuyển-mộ, ẩn-náu, xuất-quân, để địch ngày càng mạnh hơn (họ đă có thể công-khai ra mắt Mặt Trận Giải Phóng từ năm 1960).
Đến khi Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm, nhất là Cố-Vấn Ngô Đ́nh Nhu, từ giai-đoạn 2 và giai-đoạn 3 vào năm 1962 (chỉ hơn một trăm Dinh-Điền và Khu Trù-Mật) sực tỉnh mà quay trở xuống lại giai-đoạn 1, muốn dựng cấp-tốc một loạt 8,000 “Ấp Chiến-Lược” cho năm 1962 và 12,000 Ấp cho năm 1963, tổng-cộng 20,000 Ấp (đáng lẽ có thể đă thực-hiện xong, nếu chịu thi-hành giai-đoạn 1 chậm nhất là từ năm 1957). Nhưng dù chỉ cốt có lượng hơn là có phẩm, măi đến năm sau, cuối năm 1963 mà chỉ mới có hơn 7,000 Ấp (hiện-diện ở trên h́nh-thức, trong đó chỉ có khoảng 1,500 Ấp là đáng kể thôi) trên tổng-số dự-trù 20,000 Ấp, lúc đó th́ đă muộn rồi, đă quá muộn rồi.
Trong cuộc họp của Ủy Ban Liên Bộ Đặc-Trách Ấp Chiến-Lược vào ngày 12-4-1963, Cố-Vấn Ngô Đ́nh Nhu đă nhận xét: “Tôi nhận thấy việc tiếp viện cho các ACL bị VC tấn công không được thực hiện đúng mức và kịp thời. Các tỉnh phải liên lạc thường xuyên bằng vô tuyến với các quận để thông báo tin tức cho nhau đề cao cảnh giác, đồng thời cấp quận cũng phải liên lạc luôn luôn với các ACL để hỏi biết t́nh h́nh, tin tức, và đốc xuất họ đề cao cảnh giác, nhất là về ban đêm và các ngày nghỉ lễ, chiều thứ bảy, ngày chủ nhật. Thường, tôi thấy các địa phương c̣n thiếu ư thức cảnh giác, nhất là trong những ngày nghỉ, v́ vậy tôi yêu cầu các ông tỉnh trưởng, quận trưởng phải cố gắng làm việc nhiều hơn trong những ngày đó. Nếu cần nghỉ, th́ nghỉ vào những ngày khác trong tuần, để tránh qui luật cố định mà địch có thể lợi dụng”.
Năm tháng trôi qua, vào ngày 6-9-1963 Cố-Vấn Ngô Đ́nh Nhu lại triệu tập một cuộc họp của Ủy ban liên bộ đặc trách ấp chiến lược, với nhiều bộ trưởng, tướng lĩnh, do Ông Nhu chủ tọa. Trong cuộc họp này, Ông Nhu đă phiền-trách các tướng tá: “Sau mỗi lần VC tấn công một ấp chiến lược (ACL), tôi yêu cầu các Khu chiến thuật và cấp tỉnh, quận tổ chức hành quân trả đũa tức thời. Vấn đề này tôi đă đề cập nhiều lần nhưng chưa thấy các nơi tích cực thi hành. Nếu ta không hành quân trả đũa, th́ đương nhiên ta khuyến khích địch tấn công mạnh các ACL. Tôi cũng nhận thấy bên quân đội không chú trọng nhiều tới việc yểm trợ công tác xây dựng ACL”.
Nguồn: “Intra Ministry Committee for Strategic Hamlets”, Douglas Pike Collection: Other Manuscripts, Texas Tech University.
http://vietbao.vn/Phong-su/My-va-cuoc-dao-chinh-Diem-Nhu-Nhu-va-ap-chien-luoc/40003654/262/
Tóm lại, có ai có một “bảo-bối”, một “bí-quyết” quư-hiếm như “Ấp Chiến-Lược” mà không đem ra sử-dụng, mặc dù chấp-chánh đă 8 năm rồi, để chỉ moi ra và thổi phồng lên khi gần thất-chánh! – chỉ trừ những kẻ nếu không là khùng th́ cũng là khờ!
Hơn nữa, Quân-Đội của ḿnh mà không chú-trọng nhiều đến “Ấp Chiến Lược” của ḿnh, th́ “quốc sách” ấy hẳn đi về đâu?
(xem Tham-Chiếu 5)
*
“... Chương Tŕnh Ấp Chiến Lược bị gián đoạn và sau đó bị hủy bỏ qua sắc luật SL.103/SL/CT, giải tán ủy ban đặc trách Ấp Chiến Lược ở trung ương và vùng, do thủ tướng Nguyễn Khánh kư ngày 9 tháng 3-1964. ...”
Nguồn: Từ Điển Chiến Tranh Việt Nam. Nguyễn Kỳ Phong. Garden Grove, CA: Nhà Sách Tự Lực, 2009 (trang 16).
“...
9.3.1964 - Giải tán Ủy-Ban đặc-trách
Ấp Chiến Lược, ở
Trung-ương và Khu (SL.103/SL/CT)
Nguồn:
Hai Mươi Năm Qua. Đoàn
Thêm. Los Alamitos, CA:
Xuân Thu (trang 383)
Trở
lên ▲
Lansdale,
Edward
“Chuyên
viên chống nội-loạn và du-kích-chiến. Giúp Philippines
đánh tan quân cộng-sản Huk,
dựng ghế nguyên-thủ cho Tổng-Thống Magsaysay,
và từ năm 1954 qua giúp Ngô
Đ́nh Diệm. ...”
Nguồn:
Việt Nam Niên Biểu, Nhân Vật
Chí. Chính Đạo. Houston,
Texas: Văn
Hóa, 1997 (trang 195)
Lansdale,
Edward Geary:
Được
Tổng-Thống Elpidio Quirino của Phi-Luật-Tân
đích-thân yêu-cầu sung vào Phái-Bộ Quân-Trợ
Hoa-Kỳ tại Phi-Luật-Tân để
giúp cơ-quan quân-báo của nước này đánh
dẹp cộng-sản Hukbalahap (Huks), vào
lúc Ramon Magsaysay vừa được
cử làm Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng, và Lansdale
được chọn làm sĩ-quan liên-lạc với ông
ta. Hai người trở thành bạn thân, cùng đi quan-sát
chiến-trường. Lansdale giúp quân-lực
Phi triển-khai hoạt-động tâm-lư-chiến,
dân-vận,
và phục-hoạt tù-binh Huks. Ông
đă tạo-dựng cho Magsaysay sau
đó trở thành “vị
tổng-thống tài-ba nhất”
Nguồn: Edward Geary Lansdale. 1991. In the Midst of Wars. New York: Fordham University Press.
http://www.ask.com/wiki/Edward_Lansdale
http://www.statecraft.org/chapter8.html
http://www.historynet.com/ed-lansdales-black-warfare-in-1950s-vietnam.htm
Trở lên ▲
Theo Ông ĐOÀN THÊM
(Cựu Phụ-Tá Đổng-Lư Văn-Pḥng Phủ Tổng-Thống Đệ-Nhất Cộng-Hoà):
“3-2-1962.- Thiết lập Ủy-ban Trung-ương đặc-trách Ấp Chiến-lược. Ủy-ban họp mỗi tuần một lần, do Cố Vấn Ngô-đ́nh-Nhu chủ tọa, gồm đa-số các Bộ-trưởng và cao-cấp quân-dân-chính (SL 11/TTP)”
Nguồn: Hai Mươi Năm Qua - Việc từng ngày (1945-1964). Đoàn Thêm. Houston, Texas: Xuân Thu, 1965 (trang 314)
Theo nhà văn CHÍNH ĐẠO
(Tiến-Sĩ Vũ Ngự Chiêu):
“3/2/1962:
*Saigon: Diệm kư nghị định số 11/TTP, tuyên bố quốc sách Ấp Chiến Lược, và thành lập Ủy Ban Liên Bộ đặc trách Ấp Chiến Lược...”
Nguồn: Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 - Tập I-C: 1955-1963. Chính Đạo. Houston, Texas: Văn Hóa, 2000 (trang 241)
Theo Tiến-Sĩ NGUYỄN Đ̀NH TUYẾN
(Cựu giáo-sự Đại-Học Vạn Hạnh và Đà Lạt):
“Ngày 22 tháng 3 năm 1962
Hơn 4,000 Ấp Chiến Lược được chính phủ Ngô Đ́nh Diệm công bố thành lập ở Miền Nam Việt Nam. Các ấp chiến lược này được tổ chức theo kiểu mẫu của các làng chống Cộng bên Mă Lai đă giúp Mă Lai thanh toán hiểm họa đỏ...”
Nguồn: Những Biến Cố Lớn trong 30 Năm Chiến Tranh tại Việt Nam 1945-1975. Nguyễn Đ́nh Tuyến. Houston, Texas: Đại Học Đông Nam, 1995 (trang 63)
Ư-Kiến: Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm (và Cố-Vấn Ngô Đ́nh Nhu) cầm quyền từ 7-7-1954 đến 1-11-1963 (là hơn 9 năm), mà măi đến năm 1962 (tức là 8 năm sau − cũng là 2 năm sau khi đă bước vào thời-kỳ suy-thoái rơ-rệt của chế-độ từ năm 1960 rồi), mới chịu đem cái "bửu bối" Ấp Chiến-Lược ra mà thi-hành, th́ làm sao mà bảo là Ấp Chiến-Lược đă vô-hiệu-hóa được hoạt-động của cộng-sản tại Miền Nam Việt Nam?
Trở lên ▲
Theo Ông NguyỄn HỮu Hanh
(Cựu Cố-Vấn Kinh-Tế, Tài-Chánh của Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm;
Cựu Tổng-Giám-Đốc Ngân-Hàng Quốc-Gia Việt-Nam [1955-1962]):
“... Ông (Ngô Đ́nh Diệm) làm việc rất nhiều, cả ngày lẫn đêm, bởi ông chẳng có tṛ giải trí nào, không chơi môn thể thao nào, không có món tiêu khiển bất cứ kiểu nào. Môn giải trí duy nhất của ông là đi thanh tra các dự án xây dựng mới, các vùng kinh tế mới, các khu định cư mới, những ǵ mà ông tin rằng ông đă làm v́ quyền lợi dân chúng. Bởi v́ ông rất nôn nóng nh́n thấy những việc này tiến triển nhanh chóng, nên những viên chức có trách nhiệm thường gian lận và nói dối ông. Một ngày nọ, khi tôi đi thăm vùng đồng bằng sông Cửu Long, dân chúng trong vùng đă chỉ tôi xem những cái cây mới mà viên tỉnh trưởng bắt họ trồng trong một dự án tái định cư để ông Diệm đi thanh sát. Theo lời đề nghị của các bô lăo địa phương, người tài xế của tôi đă nhổ thử một cây lên cho tôi xem: đó là một cành cây mới cắt được cắm xuống đất ướt! Ở nông thôn người ta biết tôi rất gần gũi với Tổng thống và tôi dám nói sự thật với ông, v́ vậy họ không ngần ngại tiết lộ các tṛ gian lận và những cuộc tŕnh diễn dỏm của đám tỉnh trưởng và quận trưởng.
“Một lần khác tôi tới thăm một vùng kinh tế mới gần Mỹ Tho; tôi nh́n thấy một dăy hàng cây ăn quả dọc lộ có vẻ như sắp chết héo. Tôi dừng xe lại, bước tới coi. Một người nông dân tiến tới phía tôi và hỏi nhỏ tôi có muốn coi mấy cây hay không. Anh ta nhổ lên một cây và đưa cho tôi: đó là một cái cành được cắt khỏi cây và cắm xuống đất. Anh ta lập tức biến mất, rơ ràng sợ bị nh́n thấy nói chuyện với người lạ. Sau này tôi được biết là những việc như vậy xảy ra rất thường xuyên, bởi v́ các viên tỉnh trưởng và quận trưởng đều muốn tỏ cho Diệm thấy là họ đă mở mang các dự án mới một cách mau chóng, họ muốn được ông Diệm đánh giá cao, muốn “ghi điểm”, và thăng chức. Tôi nghe nói một lần ông đến thăm một dinh điền mới với một ông trung tá, trách nhiệm về dinh điền này, ông cầm lên xem một cành cây có trái; bỗng nhiên cành cây rơi xuống đất, ông biết là cành cây mới được cắm. Ông quay lại nh́n ông trung tá, mặt ông đỏ bừng; ông hét lên, ông cầm cây ba ton của ông, đánh vào người ông trung tá. Ông này qú xuống lạy xin tha tội, mặt tái mét và nước mắt rưng rưng; vài ngày sau ông trung tá bị cách chức và đày đi nước độc.”
(Trích từ cuốn hồi-kư “Brushing the World Famous” (“Làm việc với các nhân vật danh tiếng thế giới”).
Theo cựu Đại-Tướng CAO VĂN VIÊN
(qua bài viết của Ông Lâm Lễ Trinh):
“LLT: Trong hồi kư “Vietnam. Histoire secrète d'une victoire perdue” (nxb Perrin, Paris, 1986), giám đốc CIA William Colby xác nhận kế hoạch Ấp Chiến Lược, Strategic Hamlets... . Đúng như vậy không?
CVV: Kế hoạch Ấp Chiến Lược là một việc phải làm để tách CS ra khỏi nhân dân, tách cá khỏi nước, như đă từng thí nghiệm tốt ở Mă Lai với tướng Robert Thompson. Tại VN, có những sơ sót trong việc thi hành bởi một số tỉnh trưởng dàn cảnh, để lấy điểm với thượng cấp.”
(Trích từ “MẠN ĐÀM VỚI ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN” của Lâm Lễ Trinh, ngày 27.1.2006)
Theo Ông Dương hiẾu Nghĩa
(cựu đại-tá - Trong lần diện-kiến Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm vào đầu tháng 11-1960 trước khi được bổ đi làm Quận-Trưởng Quận B́nh-Minh thuộc Tỉnh Vĩnh-Long):
“... Tôi quyết định phải lợi dụng cơ hội duy nhất và hiếm có nầy để thẳng thắn và vắn tắt tŕnh bày những nhận xét của cá nhân tôi về mặt chánh trị, kinh tế, và những điểm bất lợi cho cả chánh phủ lẫn nông dân ở địa phương, đang tạo hậu quả tai hại là sự thất nhơn tâm, v́ người dân gặp quá nhiều phiền phức, mất niềm tin vào chánh quyền. Tôi nói:
“Thưa Tổng Thống, các Khu Trù Mật thật sự không có trù mật chút nào. Về phương diện vật chất, người nông dân bị mất đất mất ruộng, đôi khi c̣n mất cả mùa màng v́ phải phá đi sạch sẽ kể cả mồ mả của tổ tiên, cho công tác xây cất Khu Trù Mật, mà không bao giờ được bồi thường thiệt hại. Người dân địa phương c̣n phải đóng góp công sức và th́ giờ vào công tác, mà không bao giờ được trả thù lao (coi như làm xâu). Có trù mật thiệt, nhưng chỉ có trù mật một buổi, vào ngày Tổng Thống xuống khánh thành mà thôi. Trước cả ngàn người dân quê từ các nơi trong tỉnh được huy động về để biến khu đất hoang thành Khu Trù Mật, bằng cách bứng đủ mọi loại cây ăn trái đem về trồng, trang trí, để Tổng Thống và phái đoàn thưởng thức. Có nhiều cây dừa, cau, mới trồng chỉ có một ngày mà đă lên cao hơn 10 thước, đầy trái... Có nhiều cây bưởi “năm roi” của miền Tây mới trồng có một ngày mà có đầy những trái bưởi ngọt “Biên Ḥa” vàng ánh, không phải ghép cành mà là ghép trái! Cũng vậy, cam quít trái mùa nhờ kỹ thuật cao “gắn trái ngoài chợ vào”, nên vẫn có trái đỏ cây, đầy vườn, đầy khu... Khu phố chợ vừa mới xây cất xong mấy hôm trưóc, hôm qua c̣n tạm dùng làm chỗ ngủ cho dân công mà hôm nay có đầy đủ các hiệu chạp phô, tiệm thuốc tây, tiệm thuốc bắc, quán cơm, tiệm cà phê, pḥng mạch bác sĩ v.v... từ quận tỉnh mới dọn vào. Ngoài nhà lồng chợ, th́ cảnh buôn bán tấp nập. Nhà bảo sanh mới hôm qua c̣n là pḥng họp của ban điều hành buổi lễ khánh thành, mà hôm nay đă có vài người mẹ nằm sanh (không biết từ đâu được đưa đến), giường nệm trắng tinh, tươm tất...
“Mới nh́n qua th́ thật là trù mật, nhưng khi Tổng Thống và phái đoàn ra về rồi, th́ dân và hàng hóa đâu lại về đó. Vài ngày sau, hoang tàn trở lại với hoang tàn. Cây không trái, lá ĺa cành,... cả một màu vàng héo, không c̣n thấy có một sinh khí nào ở cái khu mà vừa mấy ngày trước đây Tổng Thống và phái đoàn chánh phủ, ngoại giao đoàn... thấy là quá trù mật... Nếu Tổng Thống thật sự muốn thấy cảnh hoang vu vắng vẻ nầy, th́ xin Tổng Thống bất thần đi viếng thử bất cứ Khu Trù Mật nào mà Tổng Thống vừa đến khánh thành một hai ngày trước đó.
“Tôi cũng tŕnh bày luôn với Tổng Thống vấn đề an ninh của Khu Trù Mật. Từ ngày khởi công thành lập cho tới ngày khánh thành (và sau đó về lâu về dài an ninh cho một khu đất bỏ hoang) là cả một gánh nặng phí phạm cho lực lượng địa phương. Chính phủ không tranh thủ được nhân tâm của người dân, mà c̣n phải bị thất nhân tâm hoàn toàn. Người dân quê càng ngày càng xa chánh quyền, như thế thật là không có lợi cho nỗ lực chống cộng....
“... Qua mẩu chuyện nhỏ nầy, cá nhân tôi thấy Tổng Thống Ngô đ́nh Diệm có chịu khó nghe và t́m hiểu t́nh h́nh, nhưng lúc nào Tổng Thống cũng có vẻ như bị bưng bít, (nghe th́ không nghe được sự thật, thấy th́ chỉ thấy toàn là những cảnh được thuộc cấp dàn dựng) lại c̣n được những người ở chung quanh Tổng Thống cố t́nh sơn phết cho ông một lớp sơn phong kiến và quan liêu (mà ở bản thân Tổng Thống tôi không thấy có), rất là tai hại cho người lănh đạo lúc bấy giờ. Dĩ nhiên, cũng rất có hại cho đất nước nữa. Và tôi nghĩ đó cũng là một trong nhiều nguyên nhân gây ra cái chết cho Tổng Thống vào ngày 2 tháng 11 năm 1963....”
(Trích từ bài viết “VỀ CÁI CHẾT CỦA TỔNG THỐNG NGÔ Đ̀NH DIỆM” của Ông Dương Hiếu Nghĩa - Saturday, July 19, 2008 12:33 AM)
Theo Ông NGUYỄN TRÂN
(Cựu đồng-chí và cộng-sự-viên thân-tín của TT Ngô Đ́nh Diệm):
... “Bắt đầu từ đầu năm 1959, Cộng sản Bắc Việt tăng số đảng viên ở miền Nam từ một lên hai phần trăm dân số, tức là gấp bội và gia tăng hoạt động khắp nơi, nhứt là đồng bằng sông Cửu Long, Cà Mau và vùng biên giới Cam Bốt.
“Số đồn bót bị rút hẹp lại theo kế hoạch của Ngô Đ́nh Nhu, bỏ ngỏ một phần lớn xă thôn cho Cộng sản. Dân vệ phải nạp vũ khí tốt để nhận vũ khí thô sơ và dao găm, nên không đủ khả năng tự vệ cho chính họ chớ chưa nói tới việc bảo vệ dân chúng. Đây là cơ hội bằng vàng cho Cộng sản thi hành chính sách khủng bố, ám sát Hội đồng xă, tấn công các đồn bót và phục kích các đoàn quân chính quy, gây ra cảnh bất an khắp nơi... .
“V́ cho là không thể nắm dân như tôi đề nghị, ông Nhu không c̣n có cách nào khác để đối phó với sự gia tăng hoạt động và đánh phá của Cộng sản là cưỡng bách tập trung dân chúng lại tại một số địa điểm nào đó để dễ kiểm soát, gọi là Khu Trù mật. Để thành lập Khu Trù mật, Tổng thống Diệm ra lệnh cho dân chúng phá hoại mùa màng đương tươi tốt trên hàng trăm mẫu tây, kể cả nhà cửa và vườn trồng cây ăn trái để tập trung gia đ́nh lại ở Khu Trù mật... .
“Tại tỉnh Kiến Hoà, trong một buổi hội họp tại hội trường tỉnh gồm nhiều thân hào nhân sĩ, Tỉnh trưởng là Thiếu tá Nguyễn Huỳnh, một Tỉnh trưởng rất được Tổng thống Diệm ưa thích, đứng lên xin trợ cấp chút ít cho dân chúng ăn mà làm Khu Trù mật, trong lúc họ đương túng thiếu. Theo lời thân phụ của Thiếu tá Huỳnh là Cụ Nguyễn Hà Hoành, cựu Án sát tôi kêu bằng bác họ kể lại, ông Diệm nổi nóng cầm cây gậy đập vào cái gạt tàn thuốc để trên bàn bể văng nhiều mảnh. Ai nấy đều khiếp sợ, nhưng bất b́nh.
“Bị dân chúng chống đối mạnh khắp nơi, Tổng thống ngưng việc làm các Khu Trù mật sau khi đă lập xong 26 khu thay thế bằng chính sách Ấp Chiến Lược. Dân chúng trên toàn quốc bị bắt buộc phải nạp tre và đi dân công để xây hàng rào xung quanh ấp và đào hào bên ngoài để không cho Cộng sản tuyên truyền cho dân và dân khỏi tiếp tế cho Cộng sản... .
“Tại miền Nam với 80% xă thôn bị Cộng sản kiểm soát, các Quận trưởng phải mở những cuộc hành quân để bắt dân phục dịch và vợ con phải đem cơm nước cho họ.
“Chính sách đó hoàn toàn thất bại trên nguyên tắc cũng như trên thực tế. Trên nguyên tắc không có cách nào phân biệt giữa người dân thường với Cộng sản. Gom dân vào bên trong Ấp Chiến Lược tức là gom cả cán bộ Cộng sản vào với họ v́ môi trường hoạt động của Cộng sản là dân. Chúng không tuyên truyền Cộng sản công khai, mà khai thác sự công phẫn của dân chúng chống Khu Trù mật và Ấp Chiến lược bắt dân chúng phải phục dịch khốn khổ.
“Cưỡng bách dân chúng phá hoại mùa màng để lập Khu Trù mật với tánh nóng nảy phi lư của Tổng thống Diệm như trường hợp tỉnh Cần Thơ chỉ làm cho dân chúng thù ghét ông như thể một Tần Thuỷ Hoàng.
“Trên thực tế, tre cắm xuống đất không thể chịu mưa nắng lâu qúa hai hoặc ba năm th́ kế hoạch là công đă tràng. Chỉ có một việc đáng làm là lấy ḷng dân bao vây Cộng sản th́ không chịu làm, lại dùng những phương tiện chóng hư nát để bao vây dân th́ quả là điều không tưởng, ngông cuồng.
“Sách “A Death in November” của Tiến sĩ Ellen Hammer viết đầy thiện cảm với Tổng thống Diệm như sau này tôi sẽ tŕnh bày, đă tường thuật rằng một ngày Xuân 1963 ba Uỷ viên trong Uỷ hội Kiểm soát Đ́nh chiến, là Gordon Cox người Gia Nă Đại, Ramchundur Goburdhum, người Ấn Độ và Mieczyslaw Maneli, người Ba Lan, đă đi với Đại sứ Bửu Hội thăm một Ấp Chiến lược ở Cao nguyên.
“Maneli đi trên đầu nhọn các cây hàng rào của ấp, lấy tay lắc xem có chắc không. “Không có chắc lắm!” Maneli vừa cười vừa nói, “thằng con nhỏ của tôi ở Warsaw có thể xô ngả. Chính phủ có chắc tin sẽ dùng hàng rào này để ngăn cản du kich không?”... .
“Tháng 10 năm 1961, thiên tai gây tai hoạ. Một trận lụt lớn chưa từng có ở miền Nam làm ngập 2,500 dặm vuông đồng bằng sông Cửu Long. Nửa triệu dân mất nhà cửa, súc vật và hoa lợi thiệt hại đến 300,000 tấn. Tại ba tỉnh, dân chúng mất hết heo, gà, vịt và từ 10 đến 15% trâu cày. Một triệu nông dân bị khánh tận. Dư luận liên hệ tai biến với sự thất đức của nhà cầm quyền. Tất cả các Ấp Chiến lược bị huỷ hoại... .”
(Trích từ cuốn sách "Công Và Tội - Những Sự Thật Lịch Sử" của Nguyễn Trân, do nhà Xuân Thu ở Los Alamitos, CA, tại Hoa Kỳ xuất-bản năm 1992, các trang 330-34)
AP CHIEN-LUOC
“In 1961 the rapid increase of insurgency in the South Vietnamese countryside led President John F. Kennedy's administration to decide to increase United States support for the Diem regime. Some $US65 million in military equipment and $US136 million in economic aid were delivered that year, and by December 3,200 United States military personnel were in Vietnam. The United States Military Assistance Command, Vietnam (MACV) was formed under the command of General Paul D. Harkins in February 1962. The cornerstone of the counterinsurgency effort was the strategic hamlet program, which called for the consolidation of 14,000 villages of South Vietnam into 11,000 secure hamlets, each with its own houses, schools, wells, and watchtowers. The hamlets were intended to isolate guerrillas from the villages, their source of supplies and information, or, in Maoist terminology, to separate the fish from the sea in which they swim. The program had its problems, however, aside from the frequent attacks on the hamlets by guerrilla units. The self-defense units for the hamlets were often poorly trained, and support from the Army of the Republic of Vietnam ( ARVN) was inadequate. Corruption, favoritism, and the resentment of a growing number of peasants who were forcibly being forced to resettle plagued the program. It was estimated that of the 8,000 hamlets established, only 1,500 were viable.”
Đại Ư:
“Trong năm 1961, cường-độ dấy loạn ở vùng nông-thôn Miền Nam Việt-Nam gia-tăng nhanh chóng đă khiến chính-quyền của Tổng-Thống John K. Kennedy quyết-định gia-tăng yểm-trợ của Hoa Kỳ cho chế-độ Diệm. Khoảng 65 triệu Mỹ-kim quân-dụng và 136 triệu Mỹ-kim kinh-viện đă được chuyển-giao trong năm ấy, và vào tháng chạp th́ đă có 3.200 nhân-viên quân-sự tại Việt Nam. Bộ Tư-Lệnh Quân-Trợ Hoa-Kỳ được thành-lập (MAC-V) dưới quyền của Tướng Paul D. Harkins vào tháng 2 năm 1962. Then chốt của nỗ-lực chống khuynh-đảo là Chuơng Tŕnh Ấp Chiến Lược, ra đời để củng-cố 14,000 làng xă Nam Việt-Nam thành 11,000 ấp kiên-cố, trong mỗi ấp đều có nhà cửa, trường học, giếng nước, và tháp canh. Mục-đích của các ấp này là tách rời du-kích ra khỏi các làng, tức nguồn cung-cấp tiếp-tế và tin-tức, hoặc, nói theo ngôn-ngữ của Mao Trạch Đông, là tách cá ra khỏi nước. Tuy nhiên, chương-tŕnh này đă vấp nhiều khuyết-điểm, chưa kể các đơn-vị du-kích vẫn tấn-công vào ấp thường-xuyên. Các bộ-phận tự-vệ trong ấp thường th́ không được huấn-luyện chu-đáo, và sự tiếp-viện từ Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa th́ không thỏa-đáng. Tệ-nạn tham-nhũng, bè-phái, và ḷng oán-hận của dân quê ngày càng gia-tăng, v́ họ bị buộc phải rời bỏ xóm làng cũ, đă gây tổn-hại cho chương-tŕnh. Người ta ước-tính là trong số 8,000 ấp đă được dựng lên, chỉ có 1,500 ấp là có thể đứng vững được.”
Nguồn: “The Fall of Ngo Dinh Diem” - http://countrystudies.us/vietnam/27.htm
trở lên ▲
http://en.wikipedia.org/wiki/Strategic_Hamlet_Program
http://www.spartacus.schoolnet.co.uk/VNstrategic.htm
http://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon2/pent4.htm
http://www.answers.com/topic/strategic-hamlets
http://www.history.com/this-day-in-history/saigon-announces-success-of-strategic-hamlet-program
http://timelines.com/1961/strategic-hamlet-program
http://www.associatedcontent.com/article/613667/failure_of_the_strategic_hamlet_program.html?cat=37
Trở lên ▲