NỮ-SĨ VI KHUÊ
TRỤ-SỞ Ðài Phát-Thanh
Huế
tọa-lạc ngay trên bờ Hữu-Ngạn của
Sông Hương,
cạnh mé Tây của đầu Cầu
Trường-Tiền,
đối-diện Đại-Khách-Sạn
Morin
bên kia Đường
Lê-Lợi
sát góc Đường
Duy-Tân.
Thuở ấy, chưa có các Ðài cấp Tỉnh, Ðài
Huế
là Tiếng Nói chung của cả
Miền Trung,
nên máy phát rất mạnh (không thua Ðài Quốc-Gia và Ðài Pháp-Á [Radio
France-Asie]
của
Pháp
ở
Sài-Gòn),
nghe được cả ở
Miền Bắc
lẫn
Miền Nam Việt-Nam.
Cả nước chưa có hệ-thống truyền-hình; cả
Miền Trung
chỉ có vài ba tờ nhật-báo ở
Huế
mà thời-sự thì dựa theo tin-tức-đọc-chậm của Ðài
Sài-Gòn. Trong
tình-hình đó, Ðài
Huế
là món ăn tinh-thần hằng ngày của đồng-bào
Miền Trung,
và của cả những người ở phiá Ngozi Tỉnh
Thanh-Hoá
và ở phiá trong Tỉnh
Bình-Thuận
mà có gốc-gác hoặc liên-hệ đời sống ở
Miền Trung.
Ngoài những tiếng hát của các nam+nữ ca-sĩ mà một số về sau vào
Sài-Gòn
thì trở thành danh-ca của toàn-dân, giọng bình và ngâm thơ của các thi+kịch-sĩ
tên-tuổi một thời, tiếng hát của các danh-ca quốc-tế trong các chương-trình nhạc
ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, và giọng đọc xì-xồ của mấy người
Pháp
trong chương-trình vô-tuyến của
Service d’Information,
những ai đã từng nghe Ðài
Huế
cũng đều xác-nhận rằng người nữ-xướng-ngôn chính của Ðài này có một giọng đọc
truyền-cảm vô-cùng. Giọng đọc của người con gái
Huế
ấy chẳng những dịu-dàng, ngọt-ngào, ấm-cúng, hấp-dẫn, mà còn trí-thức (vì không
bao giờ vấp phạm lỗi-lầm khiến thính-giả khó chịu hoặc làm sai lạc ý-nghiã của
câu văn).
Những người hiếu-kỳ đi ngang qua Ðài
Huế
thường để ý thấy có một thiếu-nữ be-bé xinh-xinh, cư-ngụ trong một căn phòng
khiêm-tốn ở tầng trên của một buồng-kho bên hông trụ-sở Ðài. Một cầu thang nhiều
bậc xi-măng từ mặt đất bắc lên cửa phòng làm cho căn phòng có vẻ cao hơn, khiến
các thanh-niên ái-mộ đặt cho người-đẹp và căn phòng ấy cái mỹ-danh “nàng bồ-câu
trên chuồng bồ-câu”.
Ðó chính là cô xướng-ngôn nói trên.
Sau ngày hồi-cư vào đầu năm
1947,
tôi thường đến Ðài
Huế
để góp phần vào các chương-trình kịch vô-tuyến hằng tuần, kể cả việc trình-bày
một số kịch thơ dã-sử và xã-hội của tôi, trong đó nhạc-sĩ
Trịnh Văn Ngân
là một trong những cây ngâm tuyệt-vời.
Do đó, tôi quen biết “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”. Tên nàng là
Trần Trinh Thuận,
tức nữ-sĩ
Vi Khuê,
một biên-tập-viên chính-ngạch có giọng-nói-trời-cho nên kiêm luôn phần-vụ
xướng-ngôn.
Tuy
Vi-Khuê
làm việc ở một cơ-quan thông-tin tuyên-truyền đậm màu chính-trị, nhưng những bài
thơ của nàng hồi đó chỉ là tâm-tình của bạn gái ở lứa tuổi hai mươi, dễ thương
như “con nai vàng ngơ-ngác, đạp trên lá vàng khô”.
*
Tôi thì lăn xả vào giữa tình-hình rối-ren cuả Quê Hương.
Dù đã từng bị giặc
Pháp
tù đày, tôi vẫn giao-du tuy không đồng-ý với
Hồng Quang,
chủ-nhiệm báo “Ý
Dân”,
là người chỉ chọn vũ-lực để chống chủ-nghiã thực-dân; và vẫn cộng-tác tuy không
thuận-tình với
Phạm Bá Nguyên,
chủ-nhiệm báo “Công
Lý,”
là kẻ nhận Ðệ-Tứ thay cho Ðệ-Tam. Tôi lui+tới với
Duy Sinh
nhưng chưa yên tâm vì huyền-thoại văn-hoá điệp-báo của
Nguyễn Bách Khoa.
Tôi rất đau lòng vì đồng-bào đói khổ, nhưng chỉ hiệu-chính giùm thi-pháp chứ
không tán-thành nội-dung khích-động giai-cấp đấu-tranh trong thi-tập “Tiếng
Nói của Dân Nghèo”
cuả
Vân Sơn PMT
[Phan
Mỹ Trúc]. Tôi
thân+thương
Trụ Vũ
và
Quách Thoại
nhưng không hợp tính với họ vì lối sống phóng-túng của hai nghệ-sĩ thân-nhân ấy
của
Vi Khuê. Tôi
tiếp-xúc với tác-giả nhưng không khép mình trong triết-thuyết bi-quan trong “Con
Thuyền Không Bến”
cuả
Nguyễn Vũ Ban. Tôi
thả hồn lên cõi siêu-nhiên nhưng không bước vào nương nhờ Cửa Thiền trong “Không
Bến Hạn”
cuả
Huyền Không.
Tôi ủng-hộ cả hai đường-lối phục-hồi độc-lập quốc-gia: công-nghiệp kháng-chiến
vũ-trang chân-chính của người dân, và nỗ-lực ngoại-vận ôn-hoà của các
chính-trị-gia không-cộng-sản trong lòng
Thế-Giới Tự-Do.
Riêng ở phiá bên này lằn ranh, tôi nhận thấy Cựu-Hoàng
Bảo Ðại
thì quá yếu mềm mà Đế-Quốc
Pháp
thì còn luyến tiếc giấc mơ đô-hộ
Việt Nam,
nên viết cuốn truyện dã-sử “Trai
Thời Loạn”
để gửi gắm ý mình, và kết-quả là tôi bị cơ-quan An-Ninh Quốc-Gia bắt giam; sau
nhờ có chính-khách
Cao Văn Chiểu,
Giám-Đốc Thông-Tin
Lê Tảo,
cùng nhiều nhân-sĩ khác, can-thiệp với Thủ-Hiến
Phan Văn Giáo,
tôi mới được thả ra.
Ðể tạo một thế đứng vững-vàng hơn, tôi thành-lập Thi+Văn Ðoàn “Xây-Dựng”,
xuất-bản các tác-phẩm của mình và của các bạn từ
Bắc
chí
Nam. Mới
bắt đầu thì
Nhất Hiên
[Phan
Nhật Hiến]
bỏ theo
Việt Minh,
và nửa chừng thì
Như Trị
[Bùi
Chánh Thời]
cũng nhảy lên chiến-khu.
Tôi hướng về nền dân-chủ và lòng hào-hiệp cuả
Hoa Kỳ
như tia sáng ở cuối đường hầm.
*
Tháng 4 năm
1954,
tôi vào phục-vụ tại Phòng 5 Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu với tư-cách văn-nghệ-sĩ &
ký-giả bị/được động-viên chuyên-môn. Lê
Ðình Thạch
và
Huy Vân
thì kỳ-cựu,
Tô Kiều Ngân
gốc Nha Thông-Tin cũng đã thành quân-nhân. Tchya
[Ðái
Ðức Tuấn]
và
Nhất Lang
thì được đồng-hoá sĩ-quan.
Ngoài việc viết bài cho báo “Tiếng
Kèn”,
cho các đơn-vị Võ-Trang Tuyên-Truyền ở tuyến đầu, và cho chính tôi đi vận-động
trong dân-nhân, tôi còn là phóng-viên chiến-tranh và biên-tập-viên chính cuả Ðài
“Tiếng
Nói Quân Ðội”
tại
Miền Trung.
Do chương-trình phát-thanh này, mà tôi là giám-đốc, tôi mới đặt phòng-giấy ngay
tại trụ-sở của Ðài Phát-Thanh
Huế,
và gặp mặt
Vi Khuê
thường-xuyên.
Thay chỗ nhạc-sĩ
Anh Chương,
tôi cử
Lâm Tuyền
làm Trưởng Ban Tân-Nhạc; nhưng rồi tôi làm lơ cho
Lâm Tuyền
đào-ngũ vì anh quá chán chuyện đời.
Tôi đưa
Văn Giảng
lên thay.
Hà Thanh
mới bắt đầu vào nghề.
Những lần xe Jeep bị hư, tôi đạp xe-đạp qua chở
Kim Tước
từ cư-xá Nha Thông-Tin ở bên kia Cầu
Trường-Tiền.
Cặp
Châu-Kỳ−Mộc-Lan
của giới ca-nhạc, cũng như cặp
Hoàng-Pha−Phương-Khanh
của giới văn+thơ, cũng đã từng ở đây.
*
Rồi Thoả-Ước
Geneva
ra đời.
Trong hội-nghị quốc-tế ấy, có ba nhân-vật
Việt-Nam
đã được thế-giới chú ý hàng đầu: Cô
Thiên-Hương,
con gái của nhà văn
Hồ Hữu Tường,
là nữ ký-giả duy-nhất, nói được nhiều ngoại-ngữ và trẻ đẹp nhất trong giới
truyền thông; Cụ
Võ-Thành-Minh,
một lão-thi-sĩ, từ
Huế
đến, đã bí-mật vượt hàng rào Cảnh-Sát
Thụy-Sĩ
vào cắm trại trên Bờ Hồ
Leman
trước hội-đường, tuyệt-thực thổi sáo nói lên nỗi lòng của người dân
Việt-Nam
mong-muốn Thống-Nhất và khao-khát Tự-Do; và Ông
Nguyễn-Quốc-Ðịnh,
Ngoại-Trưởng cầm đầu
Phái-Ðoàn Quốc-Gia Việt-Nam
của chính-phủ
Bảo Ðại,
đã từ-chức để khỏi ký tên vào văn-bản thừa-nhận việc đất nước bị qua-phân.
Thủ-Tướng
Ngô Ðình Diệm
cử Ông
Trần-Văn-Ðỗ
đến thay. Pháp
và
Việt-Minh
thoả-thuận ngưng bắn, lấy
vĩ-tuyến 17
ngang sông
Bến Hai
làm ranh-giới
Bắc–Nam.
*
Ðại-Tá
Trương Văn Xương,
Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, thuộc cánh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng là Trung-Tướng
Nguyễn Văn Hinh
[con của cựu Thủ-Tướng
Nguyễn Văn Tâm,
thân-Pháp],
mở một chiến-dịch đưa quân từ
Huế
vào tiếp-thu các Tỉnh phiá trong. Theo chương-trình chính-thức thì Thủ-Tướng
Diệm
sẽ từ
Sài-Gòn
ra chủ-toạ lễ thiết-lập Chính-Quyền Quốc-Gia tại vùng đất mới lấy lại này. Theo
kế-hoạch riêng của cặp
Hinh+Xương
thì
Diệm,
trên đường đi từ
Huế
vào
Quảng-Ngãi,
sẽ bị lính và dân dàn chào bằng tiếng hô “Đả
Đảo”
cùng với trứng thối và cà chua. Câu hỏi nổi bật là “Mười
vé phi-cơ cho gia-đình họ Ngô, hay là mạng sống cuả cả trăm ngàn binh sĩ
Quốc-Gia?” Các
bức tường vẽ khẩu-hiệu đã được xây lên; và biểu-ngữ, bích-chương, cùng
truyền-đơn liên-hệ đã được chuẩn-bị sẵn dọc đường rồi.
Phòng 5 Quân-Khu đương-nhiên đảm-trách công-tác
Tác-Động Tinh-Thần
này.
Thành-Phố
Huế
ngẫu-nhiên được chia thành hai trận-tuyến. Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu thì đóng trong
Ðại-Nội,
phiá Bắc của
Sông Hương;
nhà Ông
Ngô-Ðình-Cẩn,
trung-tâm quy-tụ cuả gia-đình
Họ Ngô,
thì nằm trên
Xóm Phú-Cam,
phiá Nam của
Sông Hương. Bộ-phận
“Tiếng
Nói Quân-Ðội”
của tôi lại đặt trụ-sở tại Ðài
Huế,
trên bờ phiá Nam. Ðể biểu-dương lực-lượng, Quân-Khu phái đến hai chiếc xe-tăng,
án-ngữ hai bên sân, trước Ðài Phát-Thanh. Các chương-trình vô-tuyến dân-chính
chỉ có nội-dung lập-lờ, thông-tin hàng-hai.
Ở
Quảng-Ngãi,
cán-bộ
Việt Minh
gài lại xúi giục dân-chúng phản-kháng lực-lượng tiếp-thu, vì thấy vẫn có Cố-Vấn
Pháp
trong hàng-ngũ Quốc-Gia; súng nổ, người chết;
Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát
xen vào.
Ðảng
Cần-Lao,
qua nhạc-sĩ
Ngọc Linh,
móc nối tôi.
Tôi không theo đảng-phái nào hết, nhưng quyết-định ủng-hộ Thủ-Tướng
Diệm,
với chủ-trương “Ðả
Thực, Bài Phong, Diệt Cộng”,
để được sự giúp-đỡ cuả
Hoa-Kỳ. Quốc-gia
giàu mạnh nhất thế-giới này đã dìu-dắt
Tây-Ðức,
nâng-nhấc
Nhật-Bản,
và cứu-vớt
Ðại-Hàn. Trung-Tá
Nguyễn Văn Bông,
Tư-Lệnh Mặt Trận
Nam–Ngãi,
đã phát-biểu với Trung-Tá
Nguyễn Văn Tố,
Phó Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, trong khi
Bông
lái xe ra đón
Tố
vào:
– Mình cộng-tác với thằng giàu thì hẳn sướng hơn phục-vụ cho thằng nghèo!
Tôi thảo truyền-đơn, tài-liệu, viết bài tuyên-truyền cho chí-sĩ họ
Ngô.
Bộ Tham-Mưu của
Xương
không tin-tưởng ở tôi. Họ lập hẳn một Ðài Phát-Thanh riêng, trong
Thành-Nội―
dân-chúng gọi là “Đài
bí-mật”―để
tự mình phổ-biến lập-trường chống-Diệm
và hô-hào dân-chúng nổi lên.
Không còn bị Cấp Trên ràng buộc, tôi công-khai dùng “Tiếng
Nói Quân Ðội”
để hậu-thuẫn cho
Diệm
và
Hoa-Kỳ.
Hồi ấy, chỉ có một số trong giới Nho-học lớn-tuổi nghe danh Ông
Ngô-Ðình-Khả,
còn đa-số dân-chúng nói chung thì ít ai biết tên Ông
Ngô-Ðình-Diệm,
ngoại-trừ một nhóm trong giới Kitô-Giáo có đọc tờ báo “Tinh
Thần”
thời-gian gần đó.
Chương-trình phát-thanh của tôi có ảnh-hưởng rất lớn trong quần-chúng, vì làn
sóng của
Ðài Huế
phát đi rất mạnh và xa, trong lúc “Ðài
bí-mật”
thì nhỏ và yếu, chỉ lẩn-quẩn vùng gần, lại khi-có khi-không.
Tôi đã lèo-lái để người dân xứ
Huế,
nghe Đài “của tôi” và trông thấy hai chiếc xe-tăng trấn đóng trước Ðài mà tưởng
và tin là phe mạnh nhất trong Quân-Lực đã đứng hẳn qua phía
Diệm,
nên biệt-phái chiến-xa đến cho tôi để bảo-vệ Tiếng Nói của mình, chống lại phe
yếu thế
Hinh–Xương.
Toàn-quốc, nhất là
Sài-Gòn,
hướng về xứ
Huế,
gốc-gác của họ
Ngô,
lấy đó làm chỉ-dấu mà lên tinh-thần.
Từ đó, các phần-tử thân-Diệm
mới dám đứng ra khỏi vòng giới-hạn của mình mà hoạt-động rộng-rãi trước mắt mọi
người.
*
Trong những tháng ngày gay-cấn ấy, cứ mỗi lần từ các cuộc hành-quân hoặc từ các
hoạt-vực bên ngoài trở về với phòng-giấy tại Ðài, tôi lại cảm thấy nhẹ-nhõm cả
người, khi gặp mặt lại những nữ-nghệ-sĩ trẻ đẹp tươi vui, như bướm, như hoa, tô
thắm cuộc đời. Trong vườn thanh+sắc ấy,
Vi Khuê
của giới thi+văn vẫn gần-gũi với tôi hơn các bạn bên giới cầm+ca. Nhưng “nàng
bồ-câu” vẫn vô-tư-lự như mọi ngày, đâu biết đầu-óc tôi đã bỏng-rát những
tính-toán mưu-mô, thân-xác tôi đã bầm-dập những gian-nan nguy-khốn, và chỉ trở
về văn-phòng để thư-giãn cho những căng-thẳng thần-kinh.
*
Thủ-Tướng
Ngô Đình Diệm
thắng phe
Hinh+Xương.
Hoa-Kỳ
mở
Phòng Thông-Tin
tại Đại-Khách-Sạn
Morin. Giám-Ðốc
Thompson A. Grunwald
là viên-chức dân-sự
Mỹ
đầu tiên đặt chân đến
Miền Trung. Tôi
tổ-chức dạy tiếng
Anh
trên Ðài, có
Tôn Thất Ðát
phụ-lực; tham-gia thường xuyên là
Thompson,
và bất-thường là bất-cứ người ngoại-quốc nào nói tiếng
Anh
mà tôi gặp được, bắt đầu từ Đại-Tá
Richardson,
Trưởng Phái-Ðoàn quân-sự Hoa-Kỳ
T.R.I.M.
Lớp dạy tiếng
Anh
của tôi là lớp đầu tiên trong lịch-sử dạy tiếng
Anh
qua làn sóng truyền-thanh cho thính-giả
Việt-Nam.
Nguyễn Cửu Tú (Phó Giám-Đốc Đài), Thompson và Nhuận
Ðại-Tá
Nguyễn Quang Hoành
lên thay
Trương Văn Xương,
rồi vì bất-đồng chính-kiến nên lại nhường chỗ cho Thiếu-Tướng
Lê Văn Nghiêm.
Ðại-Úy
Ngô Văn Hùng
thay thế nhạc-sĩ
Ngọc Linh,
làm Trưởng Phòng 5. Văn
Giảng
ra đi, tôi cử
Lê Trọng Nguyễn
lên thay. Nguyễn
vừa dịch tài-liệu vừa sáng-tác nhạc; bên cạnh giai-phẩm “Nắng
Chiều”
là “Hoan-Hô
Lê Thiếu-Tướng”
theo lệnh của
Hùng
(bắt chước “Hoan
Hô Ngô Thủ-Tướng”). Ðể
giúp
Tôn Thất Ðậu
chọn nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, tôi liên-lạc với hàng chục Toà Ðại-Sứ
ở
Sài-Gòn,
viết lời mở đầu về nền âm-nhạc của mỗi nước, và đặc-tính của mỗi bản nhạc, để
giới-thiệu trước khi trình-bày. Giáo-Sư
Lê Hữu Mục
có đến chơi đàn; nữ-sĩ
Như Thu
đến góp bài; thi-sĩ
Hồ Ðình Phương
đến ngâm thơ. Trình-bày “Mục
Thi-Ca”
của tôi là
Trần Anh Tuấn,
Ðinh Lợi,
Lan Hương,
và
Tâm Thanh
[Tôn
Nữ Kim Ninh].
*
Ở các Tỉnh
Cao-Nguyên
và miền núi Tỉnh
Quảng-Ngãi,
phong-trào đòi tự-trị của người
Thượng
nổi lên.
Chính-Quyền
Diệm
gom các phần-tử chủ chốt “Thượng
Tự-Trị”
về tập-trung ở đầu Cầu
Nam-Giao. Một
Nha Chiến-Tranh Tâm-Lý được lập nên, đặt trụ-sở ở đầu Cầu
Phú-Cam. Đại-Úy
Hùng
kiêm-nhiệm Nha này. Tôi cũng kiêm thêm một số phần-vụ ở cơ-quan này, nên dời
bàn-giấy đến đây.
Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu dời tổng-hành-dinh qua Hữu-Ngạn sông
Hương.
Nước
Việt-Nam Cộng-Hoà,
với sự hậu-thuẫn của Hiệp-Chủng Quốc
Hoa-Kỳ,
được
Thế-Giới Tự-Do
nhìn-nhận.
*
Trong những năm trẻ-trung của Nền Ðệ-Nhất Cộng-Hòa ấy,
Liên-Xô,
Hoa-Cộng,
và
Cộng-Sản Bắc-Việt,
là những bên chủ-trương chia đôi đất nước
Việt-Nam,
chưa sẵn-sàng thực-hiện vũ-trang xâm-lược
Miền Nam,
mà
Hoa-Kỳ
thì viện-trợ tối-đa cả tinh-thần lẫn vật-chất cho con bài của mình và cái
tiền-đồn mới lập này của họ ở
Ðông Nam Á,
nên tình-hình an-ninh khả-quan, chế-độ bắt đầu vững-vàng.
Thế là nhiều người liền tranh nhau mưu-quyền thủ-lợi riêng. Hầu hết chiến-công
giữ nước, cũng như thành-tích dựng nước, được dùng để dâng lên
Ngô Tổng-Thống,
chỉ là những cử-chỉ qụy-lụy, những lời-lẽ tâng-bốc, những thái-độ tôn-thờ, dành
cho toàn-thể gia-đình
họ Ngô,
được các tay+chân thân-tín của Cụ xét thấy êm tai đẹp mắt nên tường-trình lên mà
thôi.
Ông
Ngô-Ðình-Khôi,
bào-huynh của
Diệm,
từ-trần đâu cả chục năm trước kia, không ai biết đến; nay dời mộ-phần thì có cả
tá cấp-cao chức-lớn gây lộn nhau để giành làm Trưởng Nam danh-dự hầu-cận bên
quan-tài; nhiều năm về sau, hễ nhắc đến ông, nhiều kẻ còn khóc-lóc
thảm-thương. Ông
Ngô-Ðình-Luyện
làm đại-sứ tận bên nước
Anh,
người dân không hề thấy mặt, thế mà khi nhắc đến ổng thì ai nấy đều vẽ-vời ra
vô-vàn tài-cao đức-trọng, để ngợi-ca cho vừa lòng thế-gia. Huống chi các “Cố
Vấn”
hùng-cứ trong nước mà uy-quyền có khi lấn át cả ông anh. Dù không muốn
nhập-cuộc, đa-số vẫn phải nhắc đi nhai lại, để được yên thân, những sáo-ngữ đã
thành công-thức chót lưỡi đầu môi: “Nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và các bào-huynh,
bào-đệ cuả Người!” Thế là lắm kẻ được đặc-cách tiến-chức thăng-quan.
Trung-Tướng
Thái Quang Hoàng
thay thế Thiếu-Tướng
Lê Văn Nghiêm.
Nhà văn
Bùi Tuân
trở thành Dân-Biểu, không còn viết thuê xã-luận cho Ðài của tôi, mà diện lễ-phục
lái xe-hơi di diễu khắp phố-phường. Nhạc-sĩ
Ngô Ganh
không còn lập-dị, mặc bộ com-lê may bằng dạ chăn đi dưới nắng hè, bên trong là
chiếc áo ngủ cổ kiềng mà mỗi lần đi đâu thì chỉ cần gài thêm vào đó một cái cổ
áo trắng có đính sẵn ca-vát là khỏi phải tốn thêm nguyên cả chiếc áo sơ-mi; bây
giờ ảnh làm Quản-Ðốc Ðài, kiêm Ðại-Diện Nhân-Dân Miền Trung, ngồi chung dãy ghế
danh-dự với Ðại-Biểu Chính-Phủ, Tư-Lệnh Quân-Khu, v.v... trong những buổi lễ
công-cộng trên khán-đài
Phu Văn Lâu.
Trong lúc đó, tôi bị cơ quan An-Ninh Quân-Ðội thẩm-vấn tới, điều-tra lui. Họ vin
vào cớ tôi đã là Trưởng Ðài Quân-Ðội từ khi còn
Hinh+Xương.
Một hôm, Tổng-Thống
Diệm
ra
Huế
và ở lại đêm. Sáng sau, tôi nghe hàng-xóm kháo chuyện với nhau: “May mà bắt
được, chứ không thì quân khủng-bố đã ám-hại Tổng Thống đêm qua rồi!” Ðến sở, tôi
hỏi Đại-Úy
Ngô Văn Hùng
thực/hư thế nào; ổng liền gọi điện-thoại cho An-Ninh Quân-Đội, và cơ-quan này
đến bắt tôi. Truy-cứu mới biết: chính-quyền sở-tại và thân-tộc có tổ-chức nhiều
vòng đai an-ninh xung quanh nhà-thờ
Phú Cam,
nơi
Diệm
đến tiếp-xúc với giáo-dân; có một nhân-viên chìm, thuộc vòng-đai trong, vì đến
trễ nên bị chận soát ở vòng-đai ngoài; thấy y có vũ-khí giấu trong người,
đồng-bào tưởng lầm là
Việt Minh. Chỉ
có thế thôi, nhưng vì
Diệm
đã được thần-thánh-hoá, nên câu hỏi của tôi, dù là để phối-kiểm với mục-đích
dùng Đài Quân-Đội mà trấn-an dư-luận đồng-bào, cũng đã bị xem là một sự xúc-phạm
tày trời.
Ngày xưa, phần lớn văn-nghệ-sĩ đều phục-vụ trong ngành truyền-thông, nên tôi đã
từng mong được chuyển nghề qua làm việc trong cơ-quan Thông Tin, để được
quần-chúng độc-giả khán+thính-giả trọng-vọng hơn. Bây giờ đã ở trong ngành Tác
Ðộng Tinh Thần, dù của Quân Lực nhưng cũng là thông-tin tuyên-truyền, tôi mới
thấy mặt trái của tấm huy-chương.
Lần đó, nhà bác-học
Bửu Hội,
thân-thích của Cựu-Hoàng
Bảo Đại,
nhân dịp từ
Pháp
về thăm nhà, đến nói chuyện về y-học với đồng-bào
Huế
tại Rạp Chiếu Bóng
Morin.
Một số văn+thi-sĩ tùng-sự tại Nha Thông-Tin Trung-Phần đã nêu lên nhiều câu hỏi
về thời-sự, mục-đích là để gài
Hội
phải phát-ngôn ủng-hộ
Diệm,
hoặc ngược lại thì có bằng-chứng để dễ ra tay. Mặc dù
Hội
đã nhấn mạnh rằng ông không về
Việt Nam
với mục-đích chính-trị, và xin miễn đề-cập đến các vấn-đề ngoài phạm-vi y-học,
đồng-thời số đông trong cử-tọa cũng đã huýt gió phản-đối những câu hỏi lạc-đề,
nhưng nhà văn
Ðỗ Tấn
[Đỗ
Tấn Xuân]
vẫn trơ-tráo đứng dậy đặt thêm cho được vài câu hỏi nữa.
Bác-Sĩ
Trần Văn Thọ,
Tổng Giám-Ðốc Thông-Tin, mà còn tranh tài với Bác-Sĩ
Trần Kim Tuyến
(Giám-Ðốc Nha Nghiên-Cứu [tức cơ-quan Tình-Báo] thuộc Phủ Tổng-Thống), thảo nào
mà nhà-văn này cũng không chịu lép vế các nhà-văn khác trong thành-tích bao vây
những ai bị nghi là, bị cho là có thể đối-kháng chế-độ đương-quyền.
Một số nhà-thơ giành nhau chức-vụ lãnh-đạo ngành Thông-Tin, khởi đầu bằng địa-vị
Chủ-Tịch
Hội Văn-Nghệ-Sĩ & Ký-Giả Miền Trung.
Nhà-thơ
Đỗ Tấn Xuân
nhai lại cái bã
Tố Hữu
tán-tụng Staline, in hẳn cả một tập thơ―nhan
đề “Mùa
Hoa Sim Nở”―trong
đó có câu “Tiếng
đầu lòng con gọi: Cụ Ngô!”
Họ sợ vướng tôi nên tìm cách loại tôi, lùng thu thi-tập “Ánh
Trời Mai” của tôi, v.v...
Thế nhưng hầu hết các nam+nữ tân+cổ+nhạc thi+ca+kịch-sĩ cộng-tác với tôi thì chỉ
thấy tôi là một nhà thơ trẻ trai, hiền-lành, hòa-đồng với họ trong từng bộ-môn,
chứ không biết gì về những khó-khăn của tôi.
Họ cũng không quan-tâm gì đến mục-đích chính-trị của Ðài, mà lại đinh-ninh rằng
trọng-tâm hoạt-động và lý-do cùng ý-nghĩa của sự hiện-diện của Ðài chỉ là phần
diễn-ngâm ca-tấu giải-trí văn-nghệ mà họ cống-hiến cho số thính-giả gần xa ái-mộ
họ mà thôi.
Vi Khuê
thì trầm-lặng hơn họ và có một thế đứng riêng. Nàng không ca hát nhưng số
khán+thính-giả địa-phương hằng ngày háo-hức đến xúm dán mũi vào cửa kính để xem
tận mắt các nữ-danh-ca hát thật cũng như dượt bài, đều không bỏ lỡ cơ hội nhìn
ngắm cô biên-tập-viên duyên-dáng của Ðài. Các người-đẹp trình-diễn thì chỉ
xuất-hiện vào giờ có chương-trình liên-quan, còn
Vi Khuê
thì có mặt ở đó suốt ngày, để những lúc trở về Ðài tôi nhìn thấy nàng mà dịu-vợi
ưu-tư...
*
Thế rồi tôi giã-từ quân-ngũ, rời khỏi Ðài, ra ngoài hoạt-động văn-nghệ nhiều hơn
trong một môi-trường rộng-lớn và khoảng-khoát hơn.
Ngoài các nỗ-lực tích-cực trong Quân-Ðội và sau đó là trong ngành Cảnh-Sát
Công-An, tôi còn hăng say dùng hoạt-động văn-nghệ riêng tư để góp phần xây-dựng
và củng-cố chế-độ
Ðệ-Nhất Cộng-Hoà,
thí-dụ: viết báo, đi thuyết-trình trong Cảnh-Sát & Công-An và ngoài dân-chúng;
sáng-tác và trình-diễn khắp nhiều Tỉnh vở kịch thơ “Gươm
Chính-Nghiã”
của tôi đề-cao Tổng-Thống
Ngô Ðình Diệm,
kêu gọi sĩ-phu khắp nơi, đặc-biệt từ
Miền Bắc,
về với Chính-Nghiã
Miền Nam;
sáng-tác và xuất-bản tập thơ “Tuần
Trăng Mật”
vinh-danh tình yêu vợ+chồng, mà nguồn cảm-hứng sáng-tạo thì đi trước và sau đó
lại phù-hợp với tinh-thần canh-tân trong
Luật Gia-Ðình
của Bà
Ngô-Ðình Nhu...
Tôi giữ Mục “Vườn
Thơ”
trên tuần-báo “Rạng
Ðông”
của
Lê Hữu Mục,
họp làm đặc-san với
Tôn Thất Dương Tiềm,
xuất-bản thơ của các bạn gần+xa và của chính mình, kết-thân với các nhóm như
Hồ Mộng Thiệp,
Thanh Phượng,
Anh Ðộ,
Tô Như,
và
Quốc Dân...
ở
Ðà-Nẵng;
đồng nhóm Xây-Dựng là
Xuân Huyền,
Tường Vi,
Huyền Chi,
Hoài Minh,
Bàng Bá Lân,
v.v... ở
Sài-Gòn. Trong
đó, tôi giữ mục “Hội
Thơ”
(do
Hồ Đình Phương
trung-gian) trên tuần-báo
Văn-Nghệ Tiền-Phong
của
Hồ Anh,
và có nhạc-sĩ
Lê Mộng Bảo
giúp phần ấn-loát & phát-hành sách và đặc-san.
Tôi tái-tổ-chức họp bạn hằng tuần; ngày xưa thì có
Nhân Hậu,
Vĩnh Thao,
Hạnh Lang,
Trúc Lang,
Võ Ngọc Trác,
Xuân Dưỡng,
Giang Tuyền,
Kiêm Minh,
Lê Mộng Hoà,
Nhân Nam,
v.v...; bây giờ thì có
Hoàng Hương Trang,
Tuyết Lộc,
Kim Lan,
Nguyên Xuân Tứ,
Hữu Ðỗ,
Khang Lang,
Hoài Tâm,
Hương Thu,
Xuân Nghị,
Thanh Thuyền,
Thế Viên,
v.v...; có lần có cả
Trần Minh Phú
từ
Hàng Me
đến,
Diên Nghị
từ đơn-vị về,
Hồ Ðình Phương
từ
Long-An
ra...
Ðại-Hội Văn-Hoá Toàn-Quốc
dưới thời Ðệ-Nhất Cộng-Hoà (khai-mạc ngày 11 tháng 1 năm 1957) đã đem lại cho
tôi một phần thưởng tinh-thần: “Xây-Dựng”
cuả tôi được nhìn-nhận là một cành của Cây
Ða Văn-Hiến Việt-Nam.
Trong thời-gian đó,
Vi Khuê
lên xe hoa. Và đôi uyên-ương đưa nhau lên xây tổ ấm trên đồi núi
Ðà-Lạt
sương mù, bỏ lại “chuồng bồ câu” trống lạnh như nỗi thiếu vắng trong lòng của
những ai ai...
*
Sau khi bản-thân tôi gặp nhiều khó-khăn vì không chịu cải-đạo; sau khi người ta
giết chết cả hai vợ+chồng thầu-khoán
Nguyễn Văn Yến;
sau khi người ta dùng ngay phòng họp là nơi tôi hướng-dẫn học-tập “Ðạo-Ðức
của Ngô Tổng-Thống”
cho các cấp chỉ-huy Cảnh-Sát
Huế
trong các buổi “học-tập
Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục”
hằng tuần, để làm nơi tra khảo và giết chết thầu-khoán
Nguyễn Ðắc Phương
rồi ném xác xuống sân tri-hô là
Phương
nhảy lầu tự tử; sau khi nhận được vô-số bài-vở của anh+chị+em Cảnh-Sát Công-An
gửi về tôi để xin đăng lên tờ nội-san “Phục
Vụ”
do tôi chủ-biên, nội-dung tố-cáo nhiều, quá nhiều, hành-động tham-lam, tàn-bạo,
kể cả giết người, dựa quyền cuả ông Cố-Vấn
Ngô Ðình
Cẩn; v.v...
Do đó, tôi đã liều-lĩnh đứng lên công-khai nêu ra một số khuyết-điểm của chế-độ
họ
Ngô,
trong một buổi học-tập tại cơ-quan vào ngày
Lễ Hai Bà Trưng
(3-3-1960).
Biến-cố này đã gây chấn-động cả
Miền Trung.
Kết-qủa là tôi bị quản-thúc điều-tra ba tháng, gây tranh-cãi giữa hai ông Cố-Vấn
Cẩn
và Nhu...
Rồi tôi bị đày lên
Cao Nguyên
“vùng
nước độc và nguy-hiểm”
với bụi đỏ mù trời.
Đời sống chính-trị tạo thi-hứng cho tôi sáng-tác và đăng báo rời-rạc các bài thơ
mà sau
Cách-Mạng 1-11-1963
mới được gom lại ấn-hành thành tập “Với
Thượng-Ðế”, tập thơ thứ bảy cuả mình.
*
Qua đến
Ðệ-Nhị Cộng-Hoà,
tôi cũng lại gặp rắc-rối, vì tôi công-khai phản-đối những sai trái, nhất là
chiều-hướng quân-phiệt trong chế-độ
Nguyễn Văn Thiệu,
bằng một bức thư trần-tình gửi lên Cấp Trên**.
Sau cùng tôi được (hay bị?) đưa về lại
Miền Trung
để giải-quyết giùm (và tôi đã
giải-quyết được) những khó-khăn nội-bộ tại vùng đất này mà trước đó
Trung-Ương hầu như bó tay...
Giờ đây, tôi trở về
Huế
lại.
Ngồi trên ghế đá công-viên trước Ðài Phát-Thanh
Huế,
tôi nhắm mắt mường-tượng những gì đã xảy ra tại đây vào buổi tối 8-5-1963―phản-ứng
của giới
Phật-Tử bị cấm treo cờ Phật-Giáo vào ngày lễ Phật, Phật-Giáo-Đồ tập-trung, chất
nổ, người chết, sức mạnh quần-chúng...
Rồi lịch-sử đã sang trang...
Lắc đầu xua đi những ảnh-hình thế-sự, tôi thả hồn sống lại quãng đời thơ trẻ đã
qua.
Những khuôn mặt cuả
Huế
một thời, mà tôi nhớ thêm: các nhà văn
Bửu Kế,
Phan Khoang...;
các nhà thơ
Phan Văn Dật,
Nguyễn Anh,
Tô Kiều Ngân...;
nhà khảo-cứu
Bửu Cầm;
hoạ-sĩ
Phi Hùng;
nhà dựng kịch
Lê Hữu Khải;
các kịch-sĩ
Vũ Ðức Duy,
Vĩnh Phan,
Minh Mão,
Hà Nguyên Chi...;
các nhạc-sĩ
Nguyễn Hữu Ba,
Lê Quang Nhạc,
Ưng Lang,
Hoàng Thi Thơ,
Lê Tất Vịnh,
Hoàng Nguyên...;
các ca-sĩ
Minh Trang,
Thanh Nhạn,
Tôn Thất Niệm,
Ngọc Cẩm–Nguyễn
Hữu Thiết,
Bạch Yến,
Thiện Nhân,
Hương Việt,
Diệu Hương...
Tôi không gặp lại
Phương Như,
Bằng Trình
của
Huế,
Anh-Ðộ
[Ðỗ
Cẩm Khê]
của
Ðà-Nẵng,
và mất liên-lạc với
Huyền-Chi
từ sau khi nàng lấy chồng. Trước đó, bóng người áo trắng
Kiều-Ngọc
đã vuột khỏi tầm tay tôi.
Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ buổi hoàng-hôn ấy tôi lái xe Lambretta-2-bánh chở
Trần Dạ Từ
từ khách-sạn
Khê-Ký
lên
Bến-Ngự
để anh gặp
Nhã Ca;
và buổi sáng chủ-nhật kia
Hy Văn Mộng
đến nhà tôi chơi bị cháu nhỏ tè ướt cả quần khi anh bế nó lên hôn.
Có những bạn thân không còn, hoặc còn nhưng phai thân...
Nhưng
Vi-Khuê
thì vẫn còn là một người bạn thân. Cuả vợ+chồng chúng tôi.
Trong cuốn lưu-bút “Kỷ-Niệm
Vàng”
mà tôi giữ kỹ, bây giờ vẫn còn tờ giấy bạc “anh
gánh dưa”
một đồng mới toanh mà
Vi-Khuê
đã ký tặng mừng tuổi tôi vào dịp Tết năm nào.
Hình-ảnh ấy càng đậm nét khi nàng đưa
Vân-Anh,
cả hai phất-phơ tà áo màu qua cánh đồng
An-Cựu
vàng rực mùa lúa gie, đến thăm tôi vào thuở ban đầu, để rồi sau đó thì nàng làm
chứng-nhân cho cuộc lễ thành-hôn của tôi với người bạn thân ấy của nàng.
*
Giờ đây Thành-Phố
Huế
đã bị giáng bậc xuống làm Thị-Xã, tước mất―ngoại-trừ
về phần văn-hóa và lịch-sử―
cái địa-vị thủ-phủ của
Miền Trung;
hoa-khôi
Ðồng Khánh
ngày càng hiếm-hoi;
Ðài Huế
xuống cấp làm Ðài Tỉnh nhỏ; các xướng-ngôn-viên và ca-sĩ chỉ gợi tiếc những
giọng oanh vàng và hương sắc ngày xưa...
Ðệ-Nhất Cộng-Hoà
thế kia,
Ðệ-Nhị Cộng-Hoà
thế này. Mỗi chế-độ có những vấn-đề khác nhau, nhưng đều giống nhau ở vận nước
chông-chênh.
Liệu những biến-thiên của cuộc đời sẽ còn đem lại những đổi thay nào khác nữa
cho Đồng-Bào, cho Quê-Hương?
Huế
vẫn còn đây,
Ðài Huế
vẫn còn đây, và tôi trở về ngồi đây.
Nhưng tôi không còn tìm thấy lại được, sau mỗi chặng đường―cũng
vẫn gian-nan một mình chống-chọi với ma-quỷ còn sót lại trong thời buổi mới―sự
thanh-thản, dù trong chốc-lát, cho tâm-hồn mình, như những ngày nào xa xôi...