TRUNG-TÁ NGUYỄN VĂN LONG
Tuy thế, nhờ những thời-gian đợi đi “làm việc” như thế tại các trại giam
như
Thanh-Liệt
ở
Hà-Nội;
Kho-Ðạn,
Hội-An,
và
Hòa-Sơn
ở
Quảng-Nam;
mà tôi có dịp gặp nhiều cán-bộ Việt-Cộng cấp cao bị bắt về tội “kinh-tế” hoặc
“tham-ô” và cả “bạo-loạn” nữa, cũng như đồng-bào nhiều giới phạm tội “phản-động
hiện-hành”, vượt biên, vượt biển, đưa hối-lộ, xâm-phạm hoặc phá-hoại tài-sản
xã-hội chủ-nghĩa, vân vân, nên tôi biết nhiều và biết sớm những biến-cố xảy ra
bên ngoài thế-giới “cải-tạo” hơn đa-số anh+chị+em khác trong tù.
Tôi đã nghe tin Trung-Tá
Nguyễn Văn Long
tự-tử từ lâu. Nhưng vì có những trường-hợp sự thật khác với tin đồn; vả
lại, biết đâu đó không phải là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi
thân+thương; hơn nữa, anh
Nguyễn Văn Long
của tôi là một tín-đồ Ky-Tô-Giáo, lẽ nào lại tự hủy mình; do đó, tôi vừa âm-thầm
đau-khổ về hoàn-cảnh chung, vừa bán-tín bán-nghi về phần anh
Long.
Ðến khi tôi được nghe thêm hai viên “thủ-trưởng”
―
một thuộc Cục Xuất-Nhập-Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí Minh”, một thuộc Ban
Hậu-Cần Quân-Khu 5
―
khẳng-định là họ có nghe đề-cập trong nội-bộ cơ-quan rằng, ngoài một số
tướng-lĩnh
Miền Nam
đã tự-sát chứ không chịu đầu-hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung-tá
Cảnh-Sát tên
Nguyễn Văn Long,
từ
Ðà-Nẵng
di-tản vào, đã tự-tử chết phía trước trụ-sở
Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa,
tôi mới tin chắc đó chính là anh
Nguyễn Văn Long.
Anh
Long
vĩnh-biệt cõi đời giữa cảnh lửa-bỏng dầu-sôi, bạn-bè nói riêng và đồng-bào nói
chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi kẻ thù thì càng thù hận anh
thêm, lấy đâu có những vòng hoa và những nén nhang cùng những dòng lệ thương
tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm
1982,
tại Trại bí-mật
Thanh-Liệt,
thuộc Huyện Thanh-Trì,
Hà-Nội,
là nơi giam-cứu các phần-tử quan-trọng nhất, mà đa-số là cán-bộ Ðảng, Nhà-Nước
và Bộ-Ðội ở cấp Trung-Ương, do Bộ Nội-Vụ trực-tiếp quản-lý, tôi mới được một
“bạn tù” cho biết thêm một chi-tiết qúy-báu về cái chết hùng-vinh của Trung-Tá
Nguyễn Văn Long.
Ðó là
Phạm Trung Linh,
một trung-tá bộ-đội
Bắc-Việt,
nguyên Trưởng Tiểu Ban “Thanh Tra & Xét Khiếu Tố” thuộc
Trung Ương Cục Miền Nam
―
tổng-thư-ký của một tổ-chức đảo-chính quân-sự dự-định hành-động vào đêm 24 rạng
ngày
Nô-En
năm
1979
nhưng bất-thành nên bị bắt cùng với một số tướng+tá và cán-bộ cao-cấp khác
―
xác-nhận rằng gã đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh Trung-Tá
Nguyễn Văn Long
mặc cảnh-phục chỉnh-tề nằm chết trước một tượng-đài Chiến-Sĩ Quốc-Gia phía trước
trụ-sở
Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa,
in trên bìa trước của một tạp-chí
Hoa-Kỳ,
trong kho sách+báo ngoại-quốc mà Việt-Cộng ở một số cấp cao đã sưu-tầm để
nghiên-cứu những gì có liên-quan đến
Việt-Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại còn cảm thấy lòng mình
vui thỏa cho anh
Long.
Báo
Mỹ
mà đã đăng lên thì khắp thế-giới đều biết. Anh, cùng với những vị anh-hùng
tuẫn-quốc khác trong biến-cố lịch-sử
30-4-1975,
đã nói lên được hùng-hồn và cụ-thể tinh-thần bất-khuất của dân-tộc
Việt-Nam
yêu chuộng Tự-Do trước quyền-lực của cộng-sản bạo-tàn.
*
Thuở ấy, vào khoảng
1947-49,
ở
Miền Trung
có hai hệ-thống an-ninh: một bên là Pháp với cơ-quan Sûreté
fédérale (Liêm-Phóng Liên-Bang) và Police française
(Cảnh-Sát Pháp), một bên là Việt-Nam với cơ-quan Công-An & Cảnh-Sát Quốc-Gia.
Anh
Nguyễn Văn Long
tùng-sự bên Sûreté
Fédérale (chính-trị) của
Pháp,
trong số vài người phụ-trách nội-ô Thần-Kinh; còn tôi thì bên Cảnh-Sát (hình-sự)
của
Việt-Nam.
Tôi kiêm cả việc sáng-tác, ra báo, và dựng kịch cho sở-làm, và cho riêng mình.
Chúng tôi thường uống cà-phê ở quán
Lạc-Sơn,
nhà hàng lộ-thiên trên lề Đại-Lộ
Trần Hưng-Ðạo,
quay lưng vào chợ
Ðông-Ba.
Nhân-viên hai bên không ưa gì nhau, nhưng gặp mặt mãi cũng thành quen nhau.
Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai
Thời Loạn”
chống
Pháp
xâm-lược và
Bảo-Ðại
bù-nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái-đoàn của các nhân-sĩ
Cao Văn Tường,
Cao Văn Chiểu,
cùng với nhà-báo
Phạm Bá Nguyên
và cả Giám-Ðốc Thông-Tin
Lê Tảo
can-thiệp với Thủ-Hiến
Phan Văn Giáo,
tôi mới được trả tự-do. Ra tù, tự-nhiên tôi được thiện-cảm của nhiều người
hơn.
Một hôm, anh
Long
tâm-sự với tôi: “Tôi chống
Việt-Minh
nên lỡ vào làm với
Tây;
nay tôi đã quyết sẽ thôi để qua làm với người mình”.
Anh ít nói, không văn-hoa, lại lớn tuổi hơn tôi nhiều, mà đã nói thẳng với tôi
như thế thì tôi hiểu rằng anh đã đau-lòng khổ-trí đến ngần nào trước thời-cuộc
bấp-bênh của nước nhà. Trong thời-gian chờ-đợi, anh
Long
đã nghe theo lời thuyết-phục của tôi, bỏ qua cho nhiều bạn thơ của tôi, thí-dụ
Nhất-Hiên,
Vân-Sơn PMT,
Như-Trị,
v.v... mà Sûreté
Fédérale đã định bắt giam.
Liêm-Phóng Liên-Bang
của
Pháp
mà đã bắt ai thì người ấy khó về được vẹn toàn.
Sau đó, anh đã chuyển qua Công-An Việt-Nam; và
Vân-Sơn
[Phan
Mỹ Trúc]
cũng như
Như-Trị
[Bùi
Chánh Thời]
thì vào
Sài-Gòn;
kẻ thành ký-giả tên tuổi, người nên luật-sư tài-danh.
Sau khi gia-nhập vào đúng hàng-ngũ thích-hợp để phụng thờ Chính-Nghĩa Quốc-Gia,
trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực-Lượng Cảnh-Sát & Công-An Việt-Nam
Cộng-Hòa, anh
Nguyễn Văn Long
tận-tụy phục-vụ, và đã nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ-huy tích-cực,
cương-trực và liêm-khiết nhất trong Ngành.
*
TÔI về lại
Miền Trung
đảm-trách Giám-Ðốc Ngành Ðặc-Cảnh tại Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Vùng I vào ngày 26
tháng 9 năm
1973.
Tìm gặp lại các bạn cũ, thuộc lứa tuổi trên tứ-tuần, đã từng giữ các chức-vụ
Trưởng Ty Công-An, Cảnh-Sát-Trưởng, Trưởng Ty CSQG trở lên, từ thời
Bảo-Ðại
qua thời
Ðệ-Nhất Cộng-Hòa
đến nay, mà hiện còn lại tại Vùng này, tôi thấy chỉ có 6 người, trong đó có anh
Nguyễn Văn Long.
Một số chưa có chức-vụ tương-xứng thì tôi nâng lên hoặc hợp-thức-hóa cho làm Phó
Giám-Ðốc, Chánh-Sở. Anh
Long
thì đã là một Chánh-Sở nắm Sở Tư-Pháp rồi, nên tôi không giúp gì về chức-vụ mà
chỉ giúp về công-vụ mà thôi; những tin-tức về hình-sự mà tôi có được, thay vì
xếp bỏ thì tôi chuyển qua cho anh. Tuy nhiên, đáp lại, chính anh giúp tôi nhiều
hơn, rất nhiều, cả trong công-tác cụ-thể hằng ngày lẫn về phương-diện tinh-thần.
Anh
Long
tự-nguyện làm thêm nhiệm-vụ chính-trị
―
diệt-Cộng
―
ngoài phần-vụ chính của anh là truy lùng kẻ phạm-pháp về mặt hình. Là một
tay cừ trong giới tình-báo cũ, anh đã nhân làm công-tác sưu-tầm về hình-phạm mà
thu-thập thêm tin-tức về quốc-phạm, và đã cung-cấp cho Ngành Ðặc-Cảnh của tôi
nhiều manh-mối về cộng-sản nằm vùng. Theo anh quan-niệm, đã là Cảnh-Sát
Quốc-Gia, với chức-năng an-ninh trật-tự, thì phải góp phần trực-tiếp hoặc
gián-tiếp vào lãnh-vực tình-báo, để phát-hiện và loại-trừ cộng-sản
―
mà trong giai-đoạn hiện-tại thì đối-tượng Việt-Cộng phải là ưu-tiên hàng đầu
―
để bảo-vệ và duy-trì an-ninh & trật-tự chung. Anh không thể chỉ tự bằng
lòng với phận-sự tiễu-trừ tội-phạm xã-hội, mà phải tham-gia phần nào, trong
khả-năng mình, vào trách-nhiệm thanh-trừng giặc loạn để giữ nước và cứu dân.
Qua thái-độ và hành-động chính-đáng của mình, Trung-Tá
Nguyễn Văn Long
đã mặc-nhiên gửi một thông-điệp, một lời nhắn-nhe tâm-huyết, đến những
anh+chị+em đồng-nghiệp nào mà vì lí-do nào đó đã tự cho mình là Cảnh-Sát
Sắc-Phục thì không dính-dấp gì về tình-báo, nhất là Cộng-Phỉ Miền Nam và
Cộng-Tặc Bắc-Việt Xâm-Lăng.
Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo của tôi nằm trên bãi biển
Sơn-Chà,
tuốt bên kia bờ
Hàn-Giang.
Lần nào khai-giảng hoặc bế-giảng Khóa nào Nhà-Trường cũng đều có mời các cấp
chỉ-huy cả Ðặc-Cảnh lẫn Sắc-Phục đến dự. Về sau, tôi bỏ bớt tiệc mãn-khóa,
chấm dứt tình-trạng bắt các học-viên góp tiền. Không còn tiệc-tùng, thì
phần lớn quan-khách ngớt vãng-lai, viện cớ bận việc và đường quá xa; nhưng anh
Long
vẫn tiếp-tục đến dự
―
anh nói
―
để yểm-trợ tinh-thần chung.
Về mặt
tư-pháp, Trung-Tá
Nguyễn Văn Long
đã thực-hiện đúng khẩu-hiệu “pháp bất vị thân”. Ngay đối với chính đồng-nghiệp,
bất-cứ nhân-viên Cảnh-Sát nào mà phạm tội hình-sự là anh truy-tố ra Tòa thẳng
tay
―
anh nói
―
để lành-mạnh-hóa nội-bộ, và nêu gương thượng-tôn luật-pháp cho người dân.
Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lý”, ý nói anh chỉ biết
chiếu-lý chứ không vị-tình.
Sau
Hiệp-Ðịnh Paris 1973,
tình-hình xã-hội
Miền Nam
thật là rối-ren. Bên ngoài thì Cộng-Sản Bắc-Việt công-khai ồ-ạt đổ thêm
quân và chiến-cụ, vũ-khí vào tấn-công ta; bên trong thì các tổ-chức xưng-danh
đối-lập và lợi-dụng tự-do quá-khích, tiếp tay với các phần-tử nằm vùng, ngày
càng gia-tăng mức-độ và cường-độ gây hỗn-loạn trật-tự và làm suy-thoái tinh-thần
các lực-lượng Quốc-Gia. Về mặt chính-trị, CSQG vừa phải đối-phó với các
bộ-phận Ðảng, Mặt-Trận, Nhà-Nước và Nhân-Dân của CSXL và “Việt-Cộng”, vừa phải
chống-đỡ các phần-tử, phe nhóm chủ-bại và nội-ứng cho kẻ thù.
Về mặt tệ-đoan xã-hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi. Riêng về nạn dịch
nhũng-nhiễu tham-lam, công-tác đương-đầu đã gặp quá nhiều khó-khăn. Hầu
như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh-nghĩa của một chính-đảng, tìm sự
che-chở của một đoàn-thể hay một số cấp lãnh-đạo nào đó trong Chính-Quyền.
Ðụng vào họ, dù họ là kẻ phạm-pháp, có thể là tự rước lấy tai-họa vào mình.
Thế mà anh
Long
đã dám xúc-tiến điều-tra, lập hồ-sơ truy-tố nhiều nhân-vật đáng sợ. Nhiều
vụ lắm. Và vụ mà tôi thích nhất là vụ “tiền trợ-cấp dân Quảng-Trị tị-nạn”.
Ðại-khái như sau:
Ðầu năm
1975,
đồng-bào từ Tỉnh
Quảng-Trị
bắt đầu di-tản. Chính-Quyền Trung-Ương tổ-chức đón tiếp và cứu-trợ họ tại Trại
Tạm-Cư
Ðà-Nẵng.
Trên thực-tế, có người đã vào, có người vẫn còn ở lại ngoài kia. Do đó, có
một tổ-chức quy-mô đứng ra lập hồ-sơ ma để lãnh các món cứu-trợ di-tản
nhiều hơn bội-phần: tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, áo+quần, giường+mùng
chăn+chiếu, xi-măng, tôn, v.v..., cấp cho cả đồng-bào ở Trại lẫn đồng-bào vẫn
còn ở Tỉnh cũ mà được chứng-nhận là đã nhập Trại Tạm-Cư, do ngân-sách của Bộ
Xã-Hội đài-thọ. Thậm chí, họ còn lập thêm hồ-sơ theo diện tị-nạn, dành cho
đồng-bào dời-cư từ các xã bất-an và “xôi-đậu” đến định-cư tại các xã an-ninh, để
lãnh thêm loại trợ-cấp này vốn áp-dụng chung cho bất-cứ vùng quê nào. Chưa
thỏa, họ còn chứng-nhận cho cũng những đồng-bào ấy là nguyên cơ-sở của Việt-Cộng
ở vùng địch kiểm-soát, nay bỏ kẻ thù về với Quốc-Gia, để hưởng các khoản trợ-cấp
loại này do Bộ Chiêu-Hồi cung-cấp định-kỳ, v.v... Ngoài ra, người dân
di-tản cũng bị lôi-cuốn vào tình-trạng hỗn-tạp chung bên ngoài Trại, lẫn-lộn
giữa hợp-pháp và bất-hợp-pháp. Một số trở thành nhân-viên
Chương-Trình Áo Xanh,
do một tổ-chức xã-hội
Hoa-Kỳ
tài-trợ, cung-cấp việc làm cho người lao-động thất-nghiệp. Một số cũng là
hội-viên
Hội Cựu-Chiến-Binh và Dân-Phế,
quy-tụ lính cũ đâu từ thời
Pháp-thuộc,
thời
Nhật
chiếm, thời kháng-Pháp,
thời
Bảo-Ðại,
và nạn-nhân các vụ tai-nạn lưu-thông, ẩu-đả, hủy-hoại thân-thể, tàn-tật
bẩm-sinh, vân vân, nhưng cũng được lập hồ-sơ và lãnh đều đều từ một tổ-chức
nhân-đạo
Hoa-Kỳ
những món viện-trợ tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, đồ dùng, v.v... Hơn
nữa, một số giả-danh là Thương-Phế-Binh, cưỡng-thu “hụi chết” tại các hàng quán,
bến xe. Phanh-phui vụ này lòi ra vụ kia.
Tóm lại, một người lãnh nhiều trợ-cấp với nhiều tư-cách trong nhiều hoàn-cảnh
khác nhau; nhưng chỉ lãnh được một ít, còn thì nạp vào túi riêng của bọn
gian+tham.
Vụ án đã làm chấn-động dư-luận, vì dính đến nhiều cấp+chức thuộc nhiều giới,
ngành, từ cấp Tổ, Toán, Khóm, Thôn, Xã, Phường, lên đến Quận, Tỉnh, vào thấu
Sài-Gòn,
là những phần-tử chứng-nhận láo, chấp-thuận bừa, do đó, đã phí-phạm công-quỹ và
phá-hoại chính-sách của Trung-Ương.
TRONG việc móc-nối đầu mối, nuôi-dưỡng đường dây, lắm lúc nhân-viên Ðặc-Cảnh
phải giao-tiếp với những kẻ bất-lương. Bởi thế, đã có một số Trưởng Mối bị
trừng-phạt oan, vì phía
Hình-Cảnh
nghi là đồng-lõa hay đỡ đầu. Sau khi có thêm bộ-phận
An-Ninh Cảnh-Lực,
Ðặc-Cảnh
càng gặp nhiều khó-khăn hơn, đến nỗi Trưỏng Ngành Ðặc-Cảnh Trung-Ương hồi đó là
Trung-Tá
Nguyễn Mâu
đã phải lên tiếng phản-đối công-khai trước một đại-hội toàn-quốc, do Tổng
Giám-Ðốc chủ-tọa, nhưng chưa ngã-ngũ ra sao.
Với tôi, anh
Long
đã chịu nhượng-bộ: nếu gặp nhân-viên Ðặc-Cảnh liên-can đến các vụ hình, anh để
tùy tôi xét trước, để tránh oan-ức, trở-ngại cho công-tác chìm. Ấy là nhờ
anh hiểu rõ phương-thức tình-báo và đặt nhu-cầu chống Cộng lên hàng ưu-tiên. Ðó
là quyết-định linh-động duy-nhất trong cương-vị Chánh Sở Pháp-Cảnh của anh
Long.
*
KỶ-NIỆM đậm nét nhất trong đời tôi về anh
Nguyễn Văn Long
là vụ rút lui ra khỏi
Ðà-Nẵng,
thành-lũy cuối cùng của
Quân-Khu I Việt-Nam Cộng-Hòa.
Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày
28-3-1975.
Trên máy vô-tuyến truyền-tin thuộc hệ Cảnh-Sát Sắc-Phục nội-thành
Ðà-Nẵng,
tôi nghe một đài gọi đài trung-ương, nhưng không có ai trả lời. Lát sau,
có một đài khác cất tiếng: “Ðừng gọi vô-ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!”
Tôi bèn hỏi đài hồi nãy, thì được báo-cáo là có nhiều người ăn mặc lộn-xộn,
vũ-khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng
Hòa-Cường
tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ Ðặc-Cảnh ra lệnh cho Sở Tác-Vụ Vùng và Sở Ðặc-Cảnh
sở-tại đối-phó, đồng-thời gọi máy điện-thoại cho Đại-Tá
Nguyễn Xuân Lộc,
Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh-Sở Vùng và
một số Chỉ-Huy Cảnh-Lực Tỉnh tập-trung tại đây.
Lát sau, anh
Long
đến ngồi tại phòng truyền-tin của Ngành Ðặc-Cảnh Vùng
―
nơi đây có máy âm-thoại của cả 2 hệ nổi+chìm địa-phương lẫn hệ toàn-quốc, và máy
điện-thoại bưu-điện, điện-thoại quân-sự
―
cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi tình-hình thế nào.
Vì máy quá bận, tôi khuyên anh vào phòng-giấy của Đại-Tá
Lộc
để cùng theo-dõi diễn-biến tình-hình chung.
Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài Ðặc-Cảnh Vùng I [của tôi] Trung-Tá
Long
gọi tôi. Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời-lẽ trịnh-trọng khác
thường: "Tôi xin mời ông Phụ-Tá đến ngay để tổ-chức phòng-tuyến và chỉ-huy
đội-ngũ tử-thủ cùng với anh+em chúng tôi!" (Tử-thủ là lời cam-kết của
Trung-Tướng
Ngô Quang Trưởng
đọc trên Ðài Phát-Thanh
Ðà-Nẵng
suốt chiều hôm nay).
Tôi hỏi về Đại-Tá
Lộc
thì anh đáp gọn với giọng bực-tức và chán-chường: “Các ngài đào-ngũ hết
rồi!”
Anh
Long
kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ-sở Vùng
―
Chánh-Sở các Sở, Chỉ-Huy-Trưởng của một số Tỉnh, có cả mấy viên đại-tá quân-đội
―
theo Đại-Tá
Lộc
rời trụ-sở BCH Vùng, lái xe xuống bến Giang-Cảnh, lên tàu Giang-Cảnh, rời bến
hướng ra biển Ðông.
Anh hỏi đi đâu thì Đại-Tá
Lộc
trả lời: “Chúng ta di-tản vào Nam!” Anh thấy máu uất xông lên đỉnh
đầu, la lên: “Giặc chưa tấn-công, thuộc-viên vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ-huy
đã lén-lút bỏ đi như thế này là hèn!” ĐT
Lộc
cố giải-thích: “Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn đã rút đi rồi. Trong tình-huống
này chúng ta đành phải phụ lòng anh+em mà thôi!” Long bèn rút súng, nhìn
thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở
lui.
Và anh đã về trụ-sở, để cùng chiến-đấu, sống chết có nhau với anh+em.
TÔI tin-tưởng và kính-phục anh
Long
vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu đến sở thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều-động
hoạt-động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô-tuyến
cầm tay, và đòi đến họp với tôi.
Tôi kéo Thiếu-Tá
Ngô Phi Ðạm,
Chánh Sở Tác-Vụ, ra xe. Ðến bến Bạch-Ðằng quả thấy xe Jeep xanh+trắng và
ô-liu bỏ đậu nghênh-ngang; gọi máy vô-tuyến trên hệ Sắc-Phục đến Đại-Tá
Lộc
ở sở, ở nhà, không ai trả lời; tôi bèn chỉ-thị Trung-Tâm Hành-Quân Ðặc-Cảnh
báo-cáo sự-việc lên Trung-Ương.
Anh
Long
đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Ðặc-Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư-Lệnh
Quân-Ðoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi đáp là vào phi-trường, nhưng tôi
đến Sở An-Ninh Quân-Ðội; nơi đây cũng chẳng còn ai. Anh không gặp tôi, lại
hỏi; và tôi lại dối, tránh anh. Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ
dựa cho niềm tin của dân-nhân.
Ðến sau nửa đêm thì cả thành-phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng,
bãi biển Quận III, để mong chạy vào
Sài-Gòn.
Tôi cùng
Tác-Vụ,
Thám-Sát Ðặc-Biệt,
quan-sát xong tình-hình bên đó, len lách trở về thì thoáng dưới ánh đèn pha thấy
rõ hình-dáng của anh
Long,
mặc cảnh-chiến-phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt-mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy
cương-nghị, lái xe vụt qua.
ÐÓ là hình-ảnh cuối cùng của Trung-Tá
Nguyễn Văn Long,
mãi mãi hằn sâu trong ký-ức tôi.
*
GẦN sáng, ngày
29-3-1975,
Việt-Cộng pháo-kích hải-cảng, phi-trường. Mờ sáng, đặc-công từ hướng Núi
Non-Nước bắt đầu tấn-công vào. Ðến trưa, tôi gọi máy về cho Đại-Úy
Nguyễn Văn Tuyên,
Chánh Sở Nghiên+Kế, lúc đó còn ngồi tại chỗ, ra lệnh giải-tán
Trung-Tâm Hành-Quân
của Ðặc-Cảnh Vùng I, là bộ-phận sau rốt của Chính- Quyền VNCH còn hoạt-động đến
phút cuối cùng, và cho phép thuộc-viên tự tìm phương-tiện thoát thân. Xế
chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều-lĩnh trước các làn đạn
pháo-kích của địch và trực-xạ của chính bạn mình.
Và tôi không còn gặp lại anh
Long.
*
CÁI chết của Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy-nghĩ rất nhiều.
Anh đã phục-vụ dưới nhiều chế-độ khác nhau, đảm-trách công-tác ở nhiều lĩnh-vực
khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung-chính khiết-liêm. Anh tuy lớn tuổi
nhưng vẫn trẻ-trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này
vượt qua.
Trong lúc nước nhà đang bị cộng-sản xâm-lăng, anh ý-thức được chúng là kẻ thù số
một của toàn-dân, sự-nghiệp chống Cộng phải là ưu-tiên số một của mọi người yêu
quý Tự-Do, nên anh phải góp phần vàọ Thành-quả chống Cộng của CSQG nói chung, là
đã có lúc hạ được nhiều tên cộng-tặc hơn cả con số chúng bị thiệt-hại trên
chiến-trường, do đó, anh tự nhận lãnh vào bản-thân mình một phần trách-nhiệm đối
với đối-phương về những tổn-thất mà chúng hứng chịu nặng-nề; nhưng trên tất cả
là sự sụp đổ thảm-khốc của
Việt-Nam Cộng-Hòa,
mà đối với Tổ-Quốc, Dân-Tộc, Lịch-Sử, và Thế-Giới, thì cái trách-nhiệm vô cùng
lớn-lao ấy nhất-định là của mọi người, trong đó có anh; nên anh tự xử
―
cũng như các anh-hùng
Nguyễn Khoa Nam,
Phạm Văn Phú,
Lê Văn Hưng,
Lê Nguyên Vỹ,
Trần Văn Hai,
Hồ Ngọc Cẩn,
vân vân
―
để tạ tội với Tiền-Nhân và Quốc-Dân, và để nói lên tinh-thần bất-khuất của người
chiến-sĩ Tự-Do, không chịu hạ mình đầu-hàng kẻ thù.
CÁI chết của anh
Long
làm tôi hãnh-diện vô cùng. Tuy người chết không mong được đời nhắc đến,
nhưng bổn-phận của người sống là phải phát-huy những tấm gương trí-dũng ngời
sáng ấy, để nhờ đó mà mình tin-tưởng và phấn-khởi tiếp-tục lo toan sự-nghiệp
chung.
Bây giờ, đối với toàn-dân,
Nguyễn Văn Long
không còn là một trung-tá, là một Chánh-Sở Tư-Pháp, là một viên-chức An-Ninh, là
những gì gì khác nữa ... mà anh đã là và vẫn còn là đại-diện cho bất-cứ
chiến-hữu ưu-tú nào, không phân-biệt cấp/bậc, chức-vụ, ngành/nghề, hình-sự hay
phản-gián, phái mạnh hay phái đẹp; mà anh đã vinh-quang đi vào Lịch-Sử với
tư-cách một anh-hùng của
Dân-Tộc Việt-Nam
nói chung và
Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia
nói riêng.