TRUNG-TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG
GIỮA MỘT TÌNH-HÌNH KHÓ-KHĂN
Ðó
là tóm-tắt những nét chính về tướng Trưởng được
nhiều người nhận thấy hoặc đồn miệng với nhau.
Tôi trích sao riêng gửi cho ông biết điều-khoản trong Sắc-Lệnh của Thủ-Tướng quy-định việc tôi, Giám-Đốc Ngành Đặc-Biệt cấp Vùng, trực-tiếp báo-cáo tình-hình lên Tư-Lệnh Quân-Khu, liên-quan đến an-ninh và chính-trị nội-bộ, thuộc thẩm-quyền của Ðại-Biểu Chính-Phủ, là chức-vụ mà ông kiêm-nhiệm hiển-nhiên.
Sau
đó, tôi chính-thức tường-trình lên ông những vấn-đề nội-chính của Quốc-Gia.
Tôi có trách-nhiệm trực-tiếp báo-cáo tình-hình
lên Tư-Lệnh Quân-Khu, song tôi ít gặp Trung-Tướng Ngô
Quang Trưởng của Quân-Khu I, nếu so-sánh với các Trung-Tướng
Vĩnh Lộc, Lữ Lan,
Ngô Du, Nguyễn Văn
Toàn, như hồi tôi còn coi Ngành Cảnh-Sát Đặc-Biệt ở Quân-Khu II.
Trung-Tướng Trưởng dùng phần lớn thì-giờ của
ông để đi thị-sát bên ngoài, ít ở văn-phòng.
Tuy
thế, trong tâm-tưởng tôi cảm thấy gặp-gỡ và gần-gũi Tướng
Trưởng thường-xuyên. Viên trung-tướng ấy, như ở
Sài-Gòn cũng như ở Vùng II tôi nghe nhiều
người ca-tụng, quả là một nhân-vật lý-tưởng của xã-hội đương-thời. Địa-vị của
người quân-nhân đã được nâng lên hàng đầu trong bốn giới, Quân Công Cán Chính,
mà người quân-nhân ấy lại đã ở trên đỉnh cao của cả cấp-bậc lẫn chức-vụ (“Tướng
Vùng” là “Lãnh Chúa” rồi). Nào là được đề-bạt lên chức-vụ cao hơn ở Trung-Ương
nhưng ông thoái-thác, tình-nguyện ở lại trấn-giữ vùng địa-đầu đầy gian-nguy này
của Quê Hương; nào là ông tận-tụy dồn hết tâm-trí, công-sức và thì-giờ vào
công-cuộc chống Cộng ngay ở trận tiền, hiếm khi hưởng-lạc ở thị-thành; nào là
ông được Tổ-Chức Liên-Phòng Đông-Nam-Á (SEATO= South East Asia Treaty
Organization) mời qua Thái-Lan hằng tháng
thuyết-trình về nỗ-lực và kinh-nghiệm chiến-trường Việt-Nam; nào là ông không có
tham-vọng chính-trị nên được Tổng-Thống Nguyễn Văn
Thiệu tin yêu, an-tâm rằng ông sẽ không bao giờ ly-khai Trung-Ương như
cựu Trung-Tướng Nguyễn Chánh Thi ngày xưa...
Một
hôm, trong lúc chờ-đợi tập-trung tài-liệu để đem đi họp tại văn-phòng Đại-Tá
Hoàng Mạnh Đáng, Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đoàn I và
Quân-Khu I, một số sĩ-quan cao-cấp đã ngẫu-nhiên đề-cập với tôi về Trung-Tướng
Trưởng: nào là ông đã nghiêm-phạt một viên
tướng Tư-Lệnh Sư-Đoàn vì liên-đới chịu trách-nhiệm trong vụ một đơn-vị thuộc
quyền lùa bò của dân-nhân; nào là ông đã trừng-trị một đại-tá trưởng cơ-quan vì
tham-nhũng đối với ngân-sách Phát-Triển Nông-Thôn; nào là ông dùng trực-thăng
bay khắp Quân-Khu đích-thân kiểm-soát tình-hình mọi mặt, mọi nơi, kể cả giám-sát
tác-phong kỷ-luật của quân-nhân dọc đường cũng như tại các đồn trại xa xôi, vào
những ngày giờ bất-ngờ nhất; nào là ông chỉ mặc chiến-phục với áo giáp, mũ sắt,
sẵn-sàng tác-chiến bất-cứ lúc nào... Dư-luận cũng đồn là ông đã từng tát tai một
Bộ-Trưởng hãnh-tiến tại phi-trường...
Vô-số việc làm điển-hỉnh của Tướng Trưởng đã
được kể lại với tôi bằng lời-lẽ và thái-độ đầy thán-phục, gây trong tôi một
xúc-động mạnh và một ấn-tượng sâu, đến nỗi sau đó, lúc tôi leo lên giữa chừng
cầu thang dẫn đến văn-phòng của Tướng Trưởng và
Đại-Tá Đáng, thình-lình gặp Tướng
Trưởng bước xuống, tôi bỗng khựng người.
Sừng-sững trước tôi quả thật là
hình-ảnh vĩ-đại của một người-hùng mặc-áo-giáp đội-mũ-sắt, thực-tế mà
hoang-đường như trong huyền-thoại thời xưa. Ông hỏi tôi đến làm gì, tôi
nghẹn-ngào không nói nên lời, khiến Đại-Tá Lê Quang
Nhơn, Chánh Sở I An-Ninh Quân-Đội, cùng đi với tôi, phải trả lời thay.
Thế
là tôi đã có một lãnh-tụ chống Cộng khả-tín cho toàn Vùng Chiến-Thuật sôi-sục
này.
Khi
người lính ở trong quân-sở hoặc quân-cứ thì quân-phong quân-kỷ có thể được xem
là việc riêng trong gia-đình Quân-Lực; nhưng một khi người lính đã đi ra ngoài
thì mọi ngôn-ngữ cử-chỉ dù nhỏ-nhặt cũng ít nhiều ảnh-hưởng đến mối quan-hệ giữa
Quân và Dân.
So
với tổng-số quân-nhân tại-ngũ thì tỷ-lệ cá-nhân vô-kỷ-luật chỉ là một con số
nhỏ; nhưng những việc làm sai-quấy của số ít này đã gây bất-bình và ác-cảm không
ít trong dân-nhân đối với binh-giới nói chung, tạo thành một vấn-đề trong
lĩnh-vực chính-trị nội-bộ của chế-độ Việt-Nam Cộng-Hòa.
Khi
nào có một người nào vi-phạm luật-pháp hoặc luật-lệ hiện-hành mà mặc quân-phục
rõ-ràng hoặc tự-xưng là quân-nhân, thì Cảnh-Sát chỉ cần báo cho Quân-Cảnh đến
chấp-lý mà thôi. Thế là Cảnh-Sát, ở đây, là Cảnh-Sát Sắc-Phục, không theo dõi,
thống-kê, phân-loại, so-sánh tăng/giảm, tìm hiểu nguyên-nhân, v.v...; vả lại, dù
có muốn cũng không làm được, vì không biết rõ tính-danh, số quân-tịch, cấp-bậc,
đơn-vị, nội-dung sự phạm-pháp, cách giải-quyết, và kết-quả thế nào.
Nhưng đó lại là một vấn-đề nội-chính.
Nó thuộc phạm-vi nghiên-cứu của Ngành Ðặc-Cảnh (Cảnh-Sát Ðặc-Biệt); nó
xảy ra trong vùng sinh-hoạt của người dân, là vùng mà tôi đã đề-nghị và Bộ
Tư-Lệnh Quân-Khu sở-quan đã đồng-ý giao cho Ngành Ðặc-Cảnh chịu trách-nhiệm về
an-ninh chung; và nó cũng là một mục-tiêu hoạt-động hằng ngày của chính
trung-tướng Ngô Quang Trưởng. Phải bảo-toàn
hình-ảnh tốt đẹp của người chiến-sĩ đang hy-sinh xương máu trên chiến-trường;
phải duy-trì mối tình khắng-khít cá+nước quân dân; phải xóa sạch mọi tì-vết,
không để cho kẻ thù khai-thác vơ đũa cả nắm chê-bai hàng-ngũ Quốc-Gia chúng ta.
Lần
đầu tiên là vào cuối năm 1973, tôi nêu đề-tài này lên trong một buổi họp
đặc-biệt của nhóm người tạm gọi là Ủy-Ban Phối-Hợp Tình-Báo Quân-Khu I, mà
Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng giao cho Đại-Tá
Hoàng Mạnh Ðáng, Tham Mưu Trưởng, đại-diện,
chủ-tọa các buổi họp hằng tuần. Tôi
lấy quốc-lộ số I là con đường bộ huyết-mạch nối liền từ thủ-đô
Sài-Gòn ra các Tỉnh Miền Trung và miệt
ngoài, đoạn từ Sa-Huỳnh cực-Nam của Tỉnh
Quảng-Ngãi ra đến
Ðèo Hải-Vân cực-Bắc của Tỉnh
Quảng-Nam, trong đó có Thị-Xã
Ðà-Nẵng, để làm bối-cảnh điển-hình. Trên con
đường này, không những chỉ có sự đi lại của mọi tầng-lớp và thành-phần dân-nhân,
các loại ngoại-kiều, mà còn có sự hiện-diện thường-xuyên và tập-trung hoạt-động
của mọi cơ-quan và đơn-vị thi-hành luật-pháp và duy-trì an-ninh trật-tự chung.
Vào thời-điểm đó, trung-bình hai tháng là có một vụ quân-nhân dùng súng bắn bừa
vào xe đò chở đầy hành-khách đang chạy trên quốc-lộ số I, gây thương-tích cho
một vài thường-dân.
Trong phòng làm việc của Đại-Tá Ðáng có một
bộ-phận giống như chi-nhánh của hệ-thống nội-đàm mà tôi đoán là máy chính nằm
trong phòng làm việc của Trung-Tướng Trưởng.
Có lẽ ông đã mở máy mà nghe Ủy-Ban chúng tôi thảo-luận những gì. Lần họp
kế sau, Đại-Tá Ðáng khéo-léo nhắc chúng tôi
đừng đề-cập nhiều những vấn-đề nội-bộ, ý nói vì có Người Bạn Ðồng-Minh
(viên-chức CIA cố-vấn của Ðặc-Cảnh) và thông dịch-viên cùng nghe.
Tôi còn nhớ ngày xưa, khi tôi còn làm giám-đốc chương-trình phát-thanh “Tiếng Nói Quân Ðội” tại Ðệ-Nhị Quân-Khu, tôi phải đệ-trình bản thảo bài xã-luận của tôi viết hằng ngày lên cho Thiếu-Tướng (sau này là Trung-Tướng) Lê Văn Nghiêm, Tư-Lệnh Quân-Khu, duyệt trước, để được đọc trên Ðài vào chiều cùng ngày và được đăng trên báo “Tin Tức” phổ-biến khắp Quân-Khu vào sáng hôm sau. Có một lần, bài xã-luận của tôi nhắc-nhở tài-xế quân-xa tuân giữ luật-lệ lưu-thông khi lái xe trên đường thành-phố. Tôi quan-niệm rằng: khi một người lính, dù là hạng chót (binh nhì), đứng gác ở một cổng đồn, anh ta có quyền chận đường một ông Bộ-Trưởng; khi một nhân-viên Quan-Thuế (dù là hạ-đẳng) soát hàng ở một phi-trường, anh ta có quyền lục xách một viên đại-tướng; vậy thì, khi một đại-diện Cảnh-Sát (dù là sơ-cấp) kiểm-soát xe cộ, tại sao anh ta lại không có quyền chỉ dẫn đúng luật đi đường cho các quân-xa? Tướng Nghiêm phê vào bên lề bản thảo của tôi hai chữ “con cú”. Phòng Năm chúng tôi đoán ý ông cho rằng bài xã-luận ấy có phần cay-cú hoặc xoi-mói như “cú vọ” (?), nên đã xếp bỏ.
Phần đông cấp trên không
muốn nghe người khác nói đến khuyết-điểm của cấp dưới thuộc phần trách-nhiệm của
mình.
Tuy
nhiên, việc của tôi thì tôi vẫn phải làm. Ngoài Tư-Lệnh Quân-Khu ra, tôi còn
báo-cáo lên Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh Trung-Ương, là Chuẩn-Tướng
Huỳnh Thới Tây. Nơi đây chuyển lên Tư-Lệnh
Cảnh-Lực Quốc-Gia kiêm Ðặc-Ủy-Trưởng Tình-Báo Trung-Ương, là Thiếu-Tướng
Nguyễn Khắc Bình, để trình tiếp lên Tổng-Thống.
Như thế thì Trung-Ương vẫn biết đến vấn-đề đó như thường.
Sau
đó, tôi không trình-bày sự-việc nói trên trong các buổi họp như thế nữa. Tôi làm
công-văn báo-cáo hằng tháng lên Tư-Lệnh Quân-Khu.
So-sánh thì thấy, vào cuối năm 1973, trung-bình hai tháng mới có một vụ, gây
thương-tích cho một vài thường-dân; nhưng đến mấy tháng đầu năm 1975, liền trước
ngày thất-thủ Quân-Khu địa-đầu này, tổng-số thống-kê mỗi tháng đã lên đến cả
chục vụ, gây cả tử-thương cho nhiều hành-khách, trong đó có một số là quân-nhân,
và có lần cho cả một tu-sĩ của Ðạo Ky-Tô.
Phong-trào phản-đối Chiến-Tranh Việt-Nam ở Hoa-Kỳ
và một số nước khác đã mở đường cho Hiệp Ðịnh Paris 1973. Hậu-quả trầm-trọng và
cụ-thể nhất là Mỹ giảm bớt dần dần để rồi chấm dứt hẳn viện-trợ cho Việt-Nam
Cộng-Hòa.
Sau
vụ Việt-Cộng tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân năm 1968, hoạt động của Quân-Lực cũng
như của Ðặc-Cảnh gia-tăng tối đa; do đó, số cán-bộ, bộ-đội, và cơ-sở địch bị bắt
cũng gia-tăng rất nhiều. Chính-Quyền phải xây-cất thêm trại tạm giam ở mỗi Tỉnh,
một số trại giam thuộc Trung-Ương, và một trại tập-trung tại mỗi Vùng
Chiến-Thuật, để gom lại các phần-tử nguy-hiểm được đưa từ các Tỉnh về. Thật ra,
trách-nhiệm của Ngành Ðặc-Cảnh chỉ giới-hạn trong việc bắt hung-thủ và nghi-can,
điều-tra, lập hồ-sơ truy-tố trước Ủy-Ban An-Ninh, hoặc chuyển nội-vụ qua Tòa Án
Quân-Sự Mặt Trận; còn thì chỉ đích-thân tạm giữ một số ít đối-tượng đặc-biệt
trong một thời-gian ngắn cần-thiết cho việc hỏi cung hoặc xây-dựng thành
mật-viên, tại Trung-Tâm Thẩm-Vấn là nơi hội đủ các điều-kiện tiêu-chuẩn
tối-thiểu được sự cố-vấn và yểm-trợ trực-tiếp của các chuyên-gia Hoa-Kỳ. Ngoài
ra, chế-độ giam-giữ và đối-xử trước khi thành-án thì thuộc phần đảm-trách của
các Trại Tạm Giam ở phía Sắc-Phục của Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực, Trung-Tâm Cải-Huấn
thuộc Bộ Nội-Vụ, hoặc Trại Giam Tù-Binh Cộng-Sản Việt-Nam thuộc Bộ Quốc-Phòng;
và sau khi thành-án thì do Tổng-Nha Cải-Huấn hoặc Bộ Tổng Tham Mưu quản-lý và
kiểm-soát cho đến ngày các đương-nhân được trả tự-do.
Tuy
thế, Ngành Ðặc-Cảnh vẫn là cái đích chính của mọi sự chỉ-trích liên-quan đến tù
và trại giam. Do đó, Ngành Ðặc-Cảnh bị đặt trong một tình-trạng tiến/thoái
lưỡng-nan. Một mặt thì hứng chịu phần lớn dư-luận công-kích là chế-độ có quá
nhiều tù và trại giam: trại giam thì thiếu tiện-nghi, mà tù thì bị ngược-đãi,
thậm-chí tiếng lóng “bị nhốt chuồng cọp”, là một hình-thức kỷ-luật áp-dụng ở đâu
ngoài Ngành Ðặc-Cảnh, cũng bị dịch sai và hiểu lầm một cách có ác-ý là tù bị
nhốt chung chuồng với cọp. Một mặt thì phải rút ngắn thời-gian điều-tra, lập
hồ-sơ; riêng tại Trung-Tâm Thẩm-Vấn thì phải đi trước các trại giam khác về
việc: tăng thêm thức ăn; trổ thêm cửa sổ; tăng thêm hệ-thống ánh sáng và
vệ-sinh, y-tế; giảm bớt số người giam chung trong mỗi phòng – nghĩa là tăng thêm
phòng giam, nhưng đồng-thời lại phải giảm bớt tổng-số phòng giam!
Tình-hình chung được đặt dưới sự kiểm-soát thường-xuyên và bất-thần của vô-số
tổ-chức và nhân-vật: trong Chính-Quyền thì ngoài các Thanh-Tra nội-bộ từ cấp
Vùng lên đến cấp Trung-Ương còn có Biện-Lý, các phái đoàn Viện Giám-Sát,
Dân-Biểu, các cơ-quan Y-Tế, Xã-Hội, v.v...; ngoài Chính-Quyền thì có các tu-sĩ
thuộc mọi giáo-hội, các hội-đoàn từ-thiện, các nhà báo, v.v..., chưa kể áp-lực
từ các nhóm tranh-đấu, như “Phong-Trào Ðòi Cải-Thiện Chế-Ðộ Lao-Tù”, v.v...
Căng
nhất là vào cuối năm 1972, giai đoạn chuẩn-bị gấp rút cho Hiệp-Ðịnh Paris 1973,
Chính-Quyền Trung-Ương trù-liệu giảm bớt trại giam bằng cách đóng cửa, hoặc bỏ
bớt một số phòng, và giảm-thiểu tù bằng nhiều cách: chỉ giữ lại một số can-phạm
quan-trọng và nguy-hiểm nhất, còn thì trả tự-do cho những cá-nhân được sự
bảo-lãnh của thân-nhân là công-chức hoặc sĩ-quan cao-cấp của Việt-Nam Cộng-Hòa;
cho những phần-tử có khai-báo thật-thà được hưởng quy-chế hồi-chánh-viên; chuyển
những cán+cơ hoạt động có vũ-trang qua diện tù-binh để trao trả cho đối-phương;
phóng-thích, nhưng chỉ định cư-trú, một số đông những cựu-can, cựu-cán có
tiền-án tiền-tích hoạt-động cho Việt-Cộng, tuy không hội đủ yếu-tố để bị kết tội
giam lâu nhưng bị xét thấy có hại cho an-ninh chung, và những cán-binh tuy xin
ra hồi-chính nhưng tránh né khai-báo và có chỉ-dấu là trá-hàng, v.v...
Ngoại-trừ các tù-nhân đang còn thụ-án và các tù-binh đang chờ được trao trả cho
bên kia, tất cả các thành-phần trên đều là đối-tượng cho Ngành Ðặc-Cảnh
giám-thị, theo dõi, và nếu cần thì đương-đầu. Nhưng Ngành Ðặc-Cảnh lại không
được hỏi ý-kiến về nơi chỉ định cư-trú cho các đối-tượng này.
Thời-gian đó, nhiệm-sở của tôi là Vùng II. Một hôm, trong một buổi họp của Bộ
Tư-Lệnh Quân-Khu II, tại Nha Trang, Phó Tư-Lệnh là Đại-Tá
Nguyễn Cắt, chủ-tọa, đã ra lệnh cho Bộ Tham-Mưu
thuộc quyền hội-ý với các Tỉnh-Trưởng để chọn một Tỉnh trong Quân-Khu làm
địa-hạt chỉ-định cư-trú chung cho tất cả các cựu-can, cựu-cán và hồi-chánh-viên
đặc-biệt nói trên tập-trung về từ các Tỉnh và Thị-Xã khác khắp Quân-Khu.
Bản-thân tôi vốn có những quan-hệ công-vụ chặt-chẽ với các sĩ-quan cao-cấp đứng
đầu các cơ-quan Quân-Báo và Quân-An ở cấp Quân-Ðoàn và Quân-Khu, nên tuy không
được mời đến nhưng tôi vẫn lợi-dụng điều đó để đến dự các buổi họp nội-bộ của họ
mỗi sáng sớm tại Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn/Quân-Khu. Qua việc làm của Bộ Tư-Lệnh
Quân-Khu II, tôi thấy rõ là Trung-Ương muốn thay thế các trại giam hữu-hình, mà
diện-tích chỉ xấp-xỉ một ô phố, bằng những trại giam vô-hình, mà sức chứa là
lĩnh-thổ của cả một Tỉnh, vô vàn rộng lớn hơn. Biện-pháp ấy chắc-chắn sẽ bị
đả-phá dữ-dội hơn, nhất là bởi giới truyền-thông nước ngoài, tai-hại vô cùng cho
chế-độ Miền Nam. Không thể im-lặng đồng-tình, tôi đã đứng lên phát-biểu ý-kiến:
“Tôi tin là sẽ không có một Tỉnh-Trưởng nào, nếu thật-sự là Tỉnh-Trưởng,
mà lại thuận nhận cho Tỉnh mình trở thành một địa-phương quản-thúc tù.” Ðại-tá
Cắt bất-bình, nhìn thẳng mặt tôi: “Anh tưởng là
tôi không trừng-phạt được các Tỉnh-Trưởng nào không tuân lệnh của Quân-Khu sao?”
Cũng
như phần đông các nhà lãnh-đạo ở cấp quốc-gia, ông quan-niệm mỗi Tỉnh-Trưởng chỉ
là một Tiểu-Khu-Trưởng, nên lấy con mắt quân-sự mà nhìn chính-sự, và áp-đặt
mệnh-lệnh hành-pháp bằng kỷ-luật nhà binh.
Sau
khi nghe ý-kiến của tôi qua thông-dịch-viên, các viên-chức cao-cấp trong Bộ
Tư-Lệnh Cố-Vấn Quân-Sự và Viện-Trợ Kinh-Tế của Hoa-Kỳ đã đưa ngón tay cái chĩa
lên trời về phía tôi mà gật gật đầu. Thấy thế, tôi không nói gì thêm.
Sau
đó, không có Tỉnh nào được chọn làm lĩnh-thổ quản-thúc tù chính-trị cho toàn
Vùng II.
*
Biện-pháp áp-dụng từ đó cho đến sau ngày đã có Hiệp-Ðịnh Paris là cho trở về quê
cũ, người nào làng nấy, cư-trú cố-định và hạn-chế đi lại, các cựu-can cựu-cán và
hồi-chính-viên đặc-biệt mà tin-tức tình-báo cũng như nhận xét của các giới-chức
Cải-Huấn thuộc Bộ Nội-Vụ và Phục-Hoạt thuộc Bộ Chiêu-Hồi đã xếp vào loại “mìn
ngụy-trang”, “khổ-nhục-kế”, chưa cho phép tự-do hoàn-toàn. Tùy theo sự xếp loại,
các phần-tử ấy phải đến trình-diện mỗi tháng, mỗi hai tuần, hoặc mỗi tuần, tại
Phòng Ðặc-Cảnh Quận sở-tại; tại đây, nhân-viên chuyên-trách có lập một cuốn sổ,
để các đương-nhân khi đến thì ghi tên, tuổi, địa-chỉ, ngày giờ đến trình-diện,
và ký tên vào, làm bằng-chứng đã được kiểm-soát để lưu hồ-sơ.
Tại
Vùng I, tin-tức nội-tuyến cho biết có một số phần-tử thuộc diện nói trên đã
tái-hoạt-động cho Việt-Cộng. Tôi liền đích-thân đến thử một số Xã thuộc Tỉnh
Quảng-Nam để tìm hiểu tại chỗ xem sao.
Về
việc trình-diện: có một số người liên-hệ đã ăn nên làm ra, hoặc đã trở thành
đảng-viên quan-trọng của Việt-Nam Quốc-Dân Ðảng, không còn đến trình-diện tại
Phòng Ðặc-Cảnh Quận hoăc Cuộc Cảnh-Sát Xã nữa, mà chính nhân-viên hữu-trách phải
mang sổ đi tìm, bất-cứ ở đâu, lúc nào, có khi gặp rồi mà còn phải chờ chực, để
được đối-tượng ký-chỉ vào sổ trình-diện, cho có hình-thức là đã kiểm-soát họ
rồi.
Về
việc chỉ-định cư-trú và hạn-chế đi lại: dân-chúng được tự-do đi lại và cư-trú;
trừ một ít trường-hợp đặc-biệt, Cảnh-Sát không soát xét tờ khai gia-đình;
Cảnh-Sát cũng ít phối-hợp công-tác với Xã-Trưởng. Do đó, có một số phần-tử
nguy-hiểm đã rời khỏi địa-phương; họ được các Chủ-Tịch Ủy-Ban Hành-Chánh Xã
nguyên-quán cấp giấy phép cho chính-thức ra đi, nhất là vào các thị-xã, đặc-biệt
là vào Ðà Nẵng, là những nơi họ bị cấm đến, để thoát khỏi sự kiểm-soát của
cơ-quan an-ninh và dễ tái-hoạt-động sau khi đã đổi vùng. Lúc đầu thì ít, về sau
thì càng ngày càng nhiều.
Cả
một vấn-đề hệ-trọng như thế, mà mấy năm trời không ai hay biết gì.
Vào
khoảng cuối năm 1973, trung-bình vài tháng mới có một vài thanh-nam miền quê
vắng nhà lâu ngày; điều-tra thì được biết họ đã lén-lút vào rừng theo cộng-quân.
Tôi
cũng cho lập bảng thống-kê hằng tháng về sự-kiện này thì thấy con số mỗi ngày
một gia-tăng.
Cũng
như đối với các vấn-đề khác, tôi ra lệnh cho cấp dưới ghi-nhận, báo-cáo, lập
bảng thống-kê, rồi so-sánh mức-độ và cường-độ tăng/giảm thế nào, không phải chỉ
để biết suông mà thôi. Tôi đã chỉ-thị cho các Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh trình lên
Tỉnh-Trưởng sở-tại với đề-nghị có biện-pháp ngăn+trừng. Tôi cũng đã trình lên
Tư-Lệnh Quân-Khu, đồng-thời trình lên Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh Trung-Ương, để các nơi
này trình tiếp lên cho Tổng-Thống được biết về vấn-đề này.
Về phần Cảnh-Lực thì tại mỗi Xã cũng như mỗi Phường đều có một Cuộc Cảnh-Sát, nhưng chỉ là Cảnh-Sát Sắc-Phục, kiểm-soát vệ-sinh, điều-khiển lưu-thông, kiểm-tra dân-số, chấp-lý các vụ vi-phạm luật-lệ hình-sự và thể-lệ hành-chánh hiện-hành. Ðúng ra thì họ cũng có bổn-phận ngăn-chận không để người dân từ vùng Quốc-Gia di-chuyển qua vùng cộng-sản, vì là vi-phạm quy-định hành-chánh; nhưng phần lớn họ chỉ giới-hạn nhiệm-vụ trong việc thỉnh-thoảng xét hỏi giấy tờ những người khả-nghi, còn những gì hằng ngày có liên-quan đến cộng-sản, tức là chính-trị, thì họ phó mặc cho Ngành Ðặc-Cảnh đảm-đương.
Vậy mà Trung-Ương không thiết-lập
cơ-cấu Ðặc-Cảnh xuống thấu cấp Xã, mặc dù Việt-Cộng từ xưa đã biết xây-dựng
cơ-sở từ cấp Tổ Tam-Tam leo lần lên cấp Khóm Thôn, trong từng Xã một, rồi tiến
lên cấp cao hơn.
Ðể
đối-phó với Việt-Cộng ở cấp Xã, Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia chỉ-định Trưởng
Cuộc Cảnh-Sát Xã kiêm-nhiệm đại-diện Ngành Ðặc-Cảnh tại địa-phương mình; nhưng
hầu hết các viên-chức này không am-thạo, mà cũng không ham-thích, công-tác
chính-trị và phản-gián, vả lại không có nhân-viên đặc-trách tại Cuộc để giữ
phần-hành chuyên-môn, nên tuy có đại-diện mà cũng gần như không. Dù theo
lý-thuyết thì mỗi Cuộc đều có một vài nhân-viên phụ-trách Chương-Trình “Phụng
Hoàng”, xem như để đương-đầu với Việt-Cộng, nhưng trên thực-tế thì đa-số các
nhân-viên này chỉ là những ký-sự văn-phòng, lấy tài-liệu từ Ủy-Ban Phụng-Hoàng
Quận, hầu hết do Ngành Ðặc-Cảnh cung-cấp, để lập hồ-sơ, thống-kê, biểu-đồ, về
tình-hình hạ-tầng cơ-sở địch, chỉ để thuyết-trình mỗi khi có phái-đoàn đến
thanh-tra hoặc mang đi họp, chứ hiếm khi tự mình thu-thập tin-tức hoặc tự mình
tìm bắt tên Việt-Cộng nào.
Về
phần chính-quyền Xã thì tuy có một Ủy-Ban Hành-Chánh nhưng nhiều nơi mọi việc
đều do một mình Xã-Trưởng nắm trong tay. Thật ra, các vấn-đề quan-trọng đều do
chính-quyền Quận chủ-trì. Xã-Trưởng chỉ dự họp, dự lễ, ký các loại hộ-sự
chứng-thư; cũng có nơi thì lập danh-sách nhận tiền trợ-cấp di-tản, bồi-thường
thiệt-hại chiến-tranh, v.v... Hầu hết Xã-Trưởng đều không quan-tâm đến việc dân
làng bỏ trốn theo đối-phương; nhưng, dù có bận lòng thì cũng không làm gì được,
vì không có lực-lượng, không chỉ-huy được Cảnh-Sát hay Nghĩa-Quân. Ða-số
Xã-Trưởng chỉ có mặt trong Xã vào ban ngày, còn ban đêm thì về ngủ ở quận-lỵ
hoặc tỉnh-lỵ cho được an-toàn.
Trong tình-trạng chiến-tranh, nòng-cốt của chính-quyền Xã là một trung-đội
Nghĩa-Quân, do một hạ-sĩ-quan thuộc Chi-Khu biệt-phái đến chỉ-huy. Lực-lượng
quân-sự này canh gác một số yếu-điểm vào ban đêm. Từ năm 1973, Quân-Lực
thành-lập thêm một tổ-chức lãnh-thổ cấp Xã, gọi là Phân-Chi-Khu, do một sĩ-quan
chỉ-huy đơn-vị Nghĩa-Quân nói trên. Phân-Chi-Khu hầu như là một văn-phòng
tham-mưu hơn là một bộ chỉ-huy hành-quân. Và không phải Phân-Chi-Khu-Trưởng nào
cũng ở lại tại Xã vào ban đêm.
Phân-Chi-Khu-Trưởng, có lính dưới quyền, trở thành một thế-lực mâu-thuẫn với
Xã-Trưởng. Trong một đại-hội Phân-Chi-Khu thuộc Quân-Khu I tại Trung-Tâm
Huấn-Luyện Nghĩa-Quân Hòa-Cầm, ở ngoại-ô
Ðà-Nẵng, do Tổng-Thống
Nguyễn Văn Thiệu chủ-tọa, nhiều
Phân-Chi-Khu-Trưởng đã chỉ-trích các Xã-Trưởng là già-yếu, học-lực thấp, thiếu
năng-động, v.v... trong lúc không có mặt các Xã-Trưởng. Tổng-Thống
Thiệu đã gợi ý cho các Phân-Chi-Khu-Trưởng
kiêm-nhiệm Xã-Trưởng thay thế các người này. Báo-chí đã tường-thuật cái nhíu mày
của Đại-Sứ Hoa-Kỳ, và đặt câu hỏi:
tổng-thống nghĩ gì khi đòi xóa bỏ tư-cách dân-cử của Xã-Trưởng, là nhân-vật được
dân bầu vào Hội-Ðồng Xã và Hội-Ðồng này cử ra, trong lúc Hội-Ðồng Xã là một
đơn-vị dân-cử cơ-bản trên đường dân-chủ-hóa để còn tiến tới bầu-cử Quận-Trưởng,
Tỉnh-Trưởng, Thị-Trưởng, là các cấp còn lại trong hệ-thống Chính-Quyền Quốc-Gia?
Dân làng bỏ theo Việt-Cộng là một căn bệnh truyền-nhiễm. Chính-Quyền đã không ngừa bệnh mà cũng không chữa bệnh đúng cách. Chế-độ không chịu nhìn thấy những nguyên-nhân đánh mất niềm tin của người dân, và cũng không chịu chọn những phương-sách thích-ứng để khôi-phục lại niềm tin ấy, vì đã đặt quân-sự lên trên chính-trị và dân-sự, cả sau khi tình-hình đất nước đã mở vận-hội cho thế đối đầu quân-sự được bổ-sung thêm bằng thế đấu-tranh chính-trị trực diện với kẻ thù.
Vấn-đề này đã vượt lên trên khả-năng và
trách-nhiệm của một Tư-Lệnh Quân-Khu, tức Chính-Quyền Vùng, đặc-biệt là tướng
Trưởng, viên tướng biên-thùy không có tham-vọng
chính-trị nên giới-hạn cái nhìn trong con mắt nhà-binh.
Riêng tại Vùng I, vào những tháng cuối-cùng của Việt-Nam Cộng-Hòa, trung-bình
mỗi tháng đã có hằng chục vụ dân làng bỏ vùng Quốc-Gia vào rừng núi sống với
Việt-Cộng: không còn lẻ-tẻ từng người lâu lâu lén-lút một lần, mà là cả
gia-đình, nhiều gia-đình đồng loạt, công-khai chuyển-nhượng nhà đất và
thanh-toán tài-sản, ồn-ào chuẩn-bị, và ngang-nhiên kéo đi, cả giữa ban ngày,
trước mắt các cơ-cấu chính-quyền và đơn-vị quân-lực tại hương-thôn.
*
Trong các buổi họp tại Quân-Khu, các cấp lãnh-đạo không đề-cập gì đến các vấn-đề
then-chốt mà tôi đã nêu ra như trên.
Dù
phía Việt-Nam có cố giữ kín trong nội-bộ,
nhưng chắc gì phía Hoa-Kỳ đã không nắm được
những điểm khuyết/nhược đó trong sách-lược và thực-lực của Ðồng-Minh mình...
(trích từ cuốn sách hồi-ký “Về
Vùng Chiến-Tuyến”
của Lê Xuân Nhuận, do
nhà
Văn Nghệ
ở nam
Cali
xuất-bản vào năm 1996 – ISBN: 1-886566-15-1 )