TIẾN-SĨ NGUYỄN XUÂN LẠI
*
Lần này ra Huế
tôi ngẫu-nhiên gặp lại Nguyễn Xuân Lại, một người bạn thân
đã cách xa nhau từ hồi tôi bị phát-vãng ra
khỏi Miền Trung.
Bây giờ Lại là giáo-sư, dạy Luật tại Viện Ðại-Học Sài-Gòn và một số Viện Ðại-Học khác.
Chuyến này anh ra Huế
dạy tại Viện Ðại-Học Huế.
Khi đi ngang qua “Bót Cò” cũ, trước kia là trụ-sở của Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, nơi hai chúng tôi đã làm việc chung với nhau một thời-gian dài, cả Lại lẫn tôi đều hướng mắt nhìn vào.
Ở
đó, chúng tôi đã có với nhau rất nhiều
kỷ-niệm; nhưng cái kỷ-niệm đắng-xót nhất
là cuộc tranh-luận giữa hai chúng tôi mà
kết-quả là tôi lâm vòng gian-truân.
Lúc nãy, khi
mới gặp lại nhau, Thêm đã nói ngay là anh rất
buồn vì việc đáng tiếc xảy ra cho tôi ngày xưa.
Giờ đây, có lẽ để xí-xóa chuyện cũ, anh nói
qua chuyện mới:
– Mình được mời làm Thứ-Trưởng, nhưng mình chưa nhận.
Sự tiết-lộ ấy đã khiến tôi suy-nghĩ
nhiều .
*
Năm 1951, chính-quyền Quốc-Gia Việt-Nam ban-hành chế độ quân-nhiệm, theo đó các viên-chức Cảnh-Sát Công-An được xem là công-chức nên cũng bị lần-lượt động-viên.
Nguyễn Xuân Lại vào thụ-huấn tại
Trung-Tâm Huấn-Luyện Sĩ-Quan Trừ-Bị ở
Thủ Ðức; tôi vào làm việc tại Phòng Năm
thuộc Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu ở
Huế.
Cuối năm 1956, mãn
nhiệm-kỳ quân-vụ, tôi trở về Ty Cảnh-Sát
Thành-Phố Huế và được cử giữ trách-vụ
Trưởng Phòng Hành-Chánh kiêm Trưởng Phòng
Huấn-Luyện. Tôi cũng kiêm-nhiệm Trưởng Ban
Tổ-Chức và Thuyết-Trình-Viên các Lớp
“Học-Tập Chính-Trị và Công Dân Giáo Dục” mà
nội-dung và phương-thức điều-hành được ông
Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu, bào đệ của
Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, chỉ đạo cho
toàn-quốc.
Tiếp-tục đem hết tâm-sức ra phụng-sự một lý-tưởng mả tôi hằng mơ, nhưng ở trong cơ-quan Cảnh-Sát là nơi hằng ngày tiếp-cận với mọi giới đồng-bào, tôi theo-dõi tình-hình sinh-hoạt của quần-chúng trên mọi lĩnh-vực tại địa-phương, tôi mới dần dần biết thêm, dù chưa đầy đủ, những điều chướng tai gai mắt, và cả những điều bất-nhân thất đức, do một số thân-nhân, gia-nhân, và thuộc-hạ của Diệm gây ra. Ðối với Ðảng Cần-Lao, đối với Ðạo Ky-Tô, cũng như đối với cả ba Ngành trong Chính-Quyền thời Ðệ-Nhất Cộng-Hòa, họ chỉ là thiểu-số; nhưng thiểu-số đó đã cậy thế họ Ngô mà giật dây các cơ-quan chấp-hành của chế độ, để áp-bức và hãm-hại lương dân, hầu thỏa-mãn tư-lợi hoặc tư-thù.
MỘT
BUỔI LỄ CHÀO QUỐC-KỲ
Thuở đó, các công-sở
và quân-cứ đều cử lễ Chào Quốc-Kỳ vào lúc
bảy giờ rưỡi sáng mỗi ngày đầu tuần.
Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Nguyên Trung-Phần cho nhân-viên
trực-thuộc sắp hàng chỉnh-tề trước sân
trụ-sở Nha năm phút sớm hơn.
Hôm ấy, toàn-thể viên-chức hiện diện đều vô cùng hoang-mang, và sau đó kể lại với mọi người sự-việc đã xảy ra.
Ô. Hồ Đắc Vang, Trưởng Ðội Biệt
Ðộng thuộc Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, đem
thuộc-hạ đến bao vây sân chào cờ tại Nha và gác
chận trước đường, vào lúc đúng bảy giờ hai
mươi lăm phút. Vang ra lệnh điểm-danh và đóng
cổng trụ-sở. Lúc đó, Ô. Trần Văn Cư và Ô. Tôn Thất Dẫn, hai Chủ-Sự Phòng
thuộc Nha, vừa đến nơi thì bị giữ
lại bên ngoài. Viên Giám-Ðốc Nha ấy liền
đứng ra hứa sẽ phạt hai viên-chức kia, và xin
cho họ được vào vì còn kịp dự lễ
chào cờ. Nhưng viên Trưởng Ðội thuộc Ty --
là một nhân-viên dưới quyền và ở dưới
nhiều cấp -- đã không chấp-thuận. Vang điều-khiển
lễ thượng-kỳ, hát quốc-ca và “suy-tôn Ngô
Tổng-Thống”, xong chở Cư và Dẫn đến báo-cáo
nội-vụ lên Văn-Phòng của “Cậu”, tức
ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn, bào đệ của
anh em Diệm+Nhu.
Vang là một trong số ít những phần-tử đến hầu “Cậu” thường-xuyên.
MỘT
BUỔI HỌP TỐ KHỔ
Ô. Ngô Ðình Cẩn có một ngôi nhà nghỉ mát tại bãi bể Thuận-An.
Vì lý do an-ninh, chỗ nầy cách xa khu tắm
bể của đồng-bào . Những ngày cuối tuần vào
mùa hè, Cẩn thường về đó câu cá giải-trí.
Sợ “Cậu” câu cá một mình thì buồn,
một số nhân-vật tín-cẩn, hoặc muốn được
thân-cận, bèn cùng đến đó câu cá, mong tạo
bối-cảnh thân-mật cho ông. Trừ những người
được ông sai phái hoặc giữ lại để
chuyện-trò, số còn lại phải chọn
chỗ nào không gần ông lắm ― vì
sợ nếu ông không câu được cá mà bị kẻ khác
ton-hót đổ lỗi câu giành với ông thì khốn ― đồng-thời
họ cũng không đi quá xa, để vừa được ông
nhận mặt là mình cũng có tham-gia giúp vui cho ông,
vừa chục phòng khi ông gọi thì nghe mà đến
cho nhanh kẻo bị kẻ khác nhanh hơn thì mất cơ-hội
được hầu-hạ ông.
Giám Ðốc Nha
Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần, Ô. Lê Khắc Duyệt, cũng có dự phần
vào những buổi câu cá như thế.
Hôm
đó, Duyệt mặc một chiếc áo sơ-mi cụt
tay có in hình hoa bướm gì đó. Trên đường
về nhà ở thành-phố, Duyệt gặp vài nhân-viên thuộc Nha, trong
số những phần-tử đã vào Ðảng.
Thuở ấy,
xứ Huế còn rất nệ-cổ. Người
nữ phải mặc áo dài mới được ra phòng khách;
các cô giúp việc dù đang làm việc nặng, các chị bàn
hàng-rong dù đang vai gánh hay tay xách, mỗi khi ra đường đều
phải mặc áo dài. Người nam thì phải nhét
áo trong quần. Vào thời-gian chuyện này xảy ra,
tuy lối sống đã có đổi mới phần nào, xã-hội
vẫn chưa chấp-nhận cho các cá-nhân “danh-giá”,
nhất là các viên-chức cao-cấp trong chính-quyền, dù
là vào ngày nghỉ và lúc đi chơi, bỏ áo ngoài quần,
hoặc mặc áo có sọc, có ô, hoặc có in hình mà
người dân địa-phương gọi là “áo chim cò”.
Duyệt bị báo-cáo lên Văn-Phòng Cố-Vấn.
Vào
buổi “học-tập chính-trị và công dân giáo
dục” kế đó, số nhân-viên dưới quyền Duyệt, nhưng thuộc đường dây thân-tín hơn,
đã nêu vụ kể trên ra để hội đường
thảo-luận. Mặc dù viên Giám Ðốc của
họ đã nhận lỗi, xin lỗi mọi người,
và hứa về sau sẽ không tái-phạm, sau khi đã
giải-thích là mình ăn mặc như thế để
dễ lội xuống nước mà bắt cá cho
“Cậu”, số nhân-viên ấy vẫn nặng lời
sỉ-vả Duyệt và thúc đẩy các phẩn-tử khác lên
tiếng tố-cáo Duyệt là “thiếu tác-phong cách-mạng”,
“phản nhân-vị”, “không chịu học-tập noi gương
đạo đức của Ngô Tổng-Thống”.
Người dân xứ Huế không quên những vụ tố khổ vào những ngày đầu tiên Ô. Ngô Ðình Diệm lên cầm quyền.
Trong
một cuộc mít-tinh tại chúng-trường Phu Văn Lâu,
một nữ-công-chức thuộc Nha Pháp-Chánh
Trung-Phần đã đứng lên trước máy vi-âm xỉ
mặt viên Giám Ðốc của Nha ấy mà kể
tội là trước đó đã từng lợi dụng
chức-quyền để hãm-hiếp mình...
Quang-cảnh đấu tố giống hệt dưới chế-độ cộng-sản ở Miền Bắc Việt-Nam.
CÔNG-CHỨC
BỊ PHẠT VÌ VỀ VỚI GIA ÐÌNH
Có một số công-chức tùng-sự tại các công-sở
ở Huế nhưng có gia đình ở Tỉnh
Quảng-Trị; cuối tuần họ về ngoài đó
với vợ+con.
Nhưng rồi, vào một buổi trưa ngày cuối tuần nọ, số người ấy đã gặp nạn. Sau đó, họ ngao-ngán kể lại với bạn-bè:
Ô. Nguyễn Văn Đông, Tỉnh-Trưởng Tỉnh
Quảng-Trị, đã ra lệnh chận đường
từ hướng Huế ra, bắt giữ tất cả các
công-chức vừa mãn giờ làm việc cuối
tuần là để bụng đói phóng xe về với thân-nhân.
Còn nhớ dưới
thời Việt-Minh, để khuyến-khích phong-trào Bình
Dân Học-Vụ, có nhiều Xã Thôn đã dựng
cổng kiểm-soát dọc đường; ai biết chữ thì
được đi qua cổng chính, ai không biết chữ thì
phải lội vòng xuống ruộng bùn mà đi.
Đông thì không cho các công-chức ấy đi,
về với gia đình, mà cũng không chịu cho
họ quay lui. Ông bắt họ tập-trung tại
chỗ, đợi đến sáng ngày đầu tuần mới cho
xe chở họ vào Huế giao nạp cho Tòa Ðại-Biểu
Chính-Phủ Miền Trung.
Đông sợ dư-luận đồng-bào về
những bê-bối của chính-quyền Tỉnh mà ông
cầm đầu có thể bị các công-chức ở
Huế là những tai mắt ấy thu-thập đem về
phổ-biến, mà không bưng-bít được, vì ở ngoài
vòng kiểm-soát của mình.
Ông là em của một người con rể gia đình họ Ngô.
LUẬT-PHÁP
PHỤC-VỤ CHO CÁ-NHÂN
Có lần, Nha
Bảo-An Trung-Phần được cơ-quan Viện-Trợ
Mỹ trao cho một số xe Jeep. Viên trung-tá Giám Ðốc
Nha ấy đến báo-cáo với “Cậu”, xem như đó là
một thành-quả “nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và
Cậu” mới có được, và chọn một chiếc
tốt đẹp nhất đưa đến để xin “Cậu” lái
khai-mào hầu nhờ “Cậu” mà toàn Nha được hưởng
hên.
Chiếu cuối
tuần ấy, có một số giáo-sư Viện Ðại-Học
Huế, vốn được Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn nâng đỡ,
và đều là nhân-vật tên tuổi một thời ở
thủ-phủ của Miền Trung, về bãi
Thuận-An tắm bể.
Họ lái xe Traction, chạy
vùn-vụt trở về nhà ở Thành-Phố Huế vào lúc
hoàng-hôn.
Ðồng-thời,
từ tư-thất ở Thành-Phố về nhà nghỉ mát
ở bãi bể, Ô. Cố-Vấn đích-thân cầm tay lái, lái
thử chiếc xe Jeep mới của Nha Bảo-An.
Trên con đường lưu-thông duy-nhất giữa hai địa điểm, mà vào cuối tuần giữa mùa hè nóng bức thì người dân đi tắm bể tấp-nập, khi ngang qua lãnh-thổ Quận Phú-Vang, hai xe ngược chiều kể trên gặp nhau.
Xe Traction thì thấp; xe Jeep thì cao, mà vì mới xuất-kho nên mặt kính đèn trước chưa được che bớt phần trên bằng một lớp sơn màu vàng như các xe khác, và Ô. Cẩn thì cứ để đèn pha mà chạy. Các nhà học-thức ấy bị chói mắt nên nổi giận, bèn cũng bật đèn pha, rồi thắng xe lại ngay giữa lòng đường, chận đầu chiếc xe kia, nhảy ra, xông tới, định dạy cho tài-xế xe Jeep một bài học. Cùng lúc, Ô. Cố-Vấn luýnh-quýnh thắng xe lại; các vệ-sĩ của ông tưởng gặp kẻ khủng-bố nên nhảy ngay xuống, xáo ổ đạn, chĩa mũi súng về phía đối-phương, sẵn-sàng bấm cò.
Thế
là hai bên nhận ngay ra nhau; các nhà khoa-bảng liền đổi
thái-độ, chắp tay vái “Cậu” liên-hồi.
Sau đó, Tòa Ðại-Biểu
Chính-Phủ Trung-Phần Việt-Nam chỉ-thị cho Nha Công-Chánh
Giao-Thông, Nha Cảnh-Sát Công-An, cùng Tòa Hành-Chánh, Cơ-Quan
Quân-Sự, Ty Công-Chánh, Ty Thông-Tin Tỉnh Thừa-Thiên, Ty
Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, Trung Ðội Hiến-Binh
địa-phương, v.v... phải họp tìm biện-pháp
tạo sự thoải-mái cho “Cậu” trên đường đi
. Họ bèn quy định, phổ-biến, và kiểm-soát,
để từ nay trở đi mọi loại xe-cộ lưu-thông
trên đường Huế―Thuận-An,
và ngược lại, chỉ được phép chạy với
tốc-lực tối đa 25 cây số/mỗi giờ; hễ
gặp xe khác thì phải ngừng lại, rồi
chạy từ từ; và nhất là buổi tối và ban đêm
thì chỉ được bật đèn ló mà thôi.
Sự việc ông Cố-Vấn bị chận xe dọc đường thì đã được chính ông bỏ qua; nhưng vì nó có liên-quan đến “Cậu”, các nhà chức-trách xem là quan-trọng hàng đầu nên đã đặt thành luật-lệ cho người dân tuân theo.
MỘT
BỮA TIỆC SINH-NHẬT CỦA “CẬU”
Vào dịp
sinh-nhật của Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn năm
ấy, một mình tôi nhận được ba tấm
thiệp mời dự tiệc; một với tư-cách văn-nghệ-sĩ
ký-giả, một với tư-cách thành-viên Thuyết-Trình-Ðoàn
Học-Tập Chính-Trị và Công Dân Giáo Dục, và
một với tư-cách cấp chỉ-huy ngành Cảnh-Sát Công-An.
Trên
đầu tờ giấy có in hàng chữ “Văn-Phòng
Cố-Vấn Chỉ Ðạo Các Ðoàn-Thể Cao―Trung―Hải”.
Về các “Ðoàn-Thể”, có nơi ghi rõ là “Chính-Trị,
Kinh-Tế, Văn-Hóa, Xã-Hội, Thanh-Niên, Phụ-Nữ,
Sinh-Viên Học-Sinh, Lao-Công, v.v...” Cao là Cao-Nguyên, Trung
là Trung-Phần, và Hải là Hải-Ngoại.
Ðây là một cơ-hội
hiếm có để tôi có thể trực-tiếp
nghe+thấy những gì liên-quan đến “Cậu”, người
mà dân-chúng sợ-hãi như một hung-thần.
Con đường xe lửa xuyên-Việt nằm ở giữa, ngăn-cách tư-thất của Ô. Cố-Vấn với Văn-Phòng ở bên kia . Lách qua khỏi hai cánh cổng sắt cao to mở hé, tôi bước vào một thế-giới lạ thường.
Không
có đường dây điện-thoại liên-lạc với bên
ngoài. Ô. Cố-Vấn thường chỉ ở trong tư-thất,
và ít có ai thấy được chữ ký của ông.
Một mái rạp cao được dựng sát trước hiên nhà, dài suốt ba gian, là nơi bày dọn nhiều dãy bàn ăn. Hầu hết món ăn đều là món Huế, những loại ngày xưa dành cho hoàng-gia, triều-thần nhà Nguyễn và giới thượng-lưu, do chính một số đầu-bếp cũ trong Ðại-Nội hoặc tại các Phủ Chúa đến nấu dọn.
Thực-khách
được chia ra mời làm nhiều đợt; nhưng có một
số đến sớm trước giờ; và một số ăn
xong vẫn còn nấn-ná ở lại, vừa chỉ
dẫn cho những kẻ đến sau để tỏ ra
rằng mình đã là người nhà của chủ-nhân
rồi, vừa cầu-may mong có cơ-hội được
“Cậu” hỏi đến.
Mắt mang kính,
miệng nhai trầu, tay cầm quạt khi thì
phe-phẩy, khi thì dùng để gãi lưng, Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn vừa nói chuyện với vài ba nhân-vật
―
nhất là ông Nguyễn Ðình Cẩn, Tỉnh-Trưởng
Trưởng Tỉnh Bình-Thuận, suốt buổi
vẫn bám sát theo ông ―
vừa đi quanh chăm-sóc từ các loại cây cảnh quý
trước mặt nhà đến các loại muông thú hiếm bên
hông và sau vườn, trong đó có một con voi con.
Hầu-hạ quanh nhà
có một số nhân-viên Cảnh-Sát hoặc Công An. Có
một kẻ thường đi dọc theo đường Phan Chu Trinh
và đường Vạn Vạn, trên bờ Nam của “sông
An-Cựu nắng đục mưa trong”, ngang-nhiên chặt cây
trên bến, và cả chuối trong vườn nhà dân, nói là
để cho voi của “Cậu” ăn. Nhiều người
qua lại trên cầu Phú Cam và trên đường bờ sông
Phan Ðình Phùng có lần trông thấy dưới
bến “Cậu” dùng thìa cà-phê múc sữa đút cho
voi uống, trong lúc các thuộc-viên đang kỳ-cọ
tắm cho con voi.
Tôi
vừa vào đến nơi thì nghe có tiếng còi xe
hộ-tống hụ từ phía cầu Phú Cam. Ô. Cố-Vấn quay đầu về phía nhà trong,
im-lặng lắng nghe. Lập-tức, có hai thuộc-viên
chạy nhanh ra cổng. Họ thò đầu ra ngoài nói
gì đó, rồi nhân-viên gác cổng mở hé một cánh
cổng cho một số quan-chức và một viên tướng
bước vào. Tất cả đều mặc
lễ-phục, và đều đi rón-rén vì sợ đế
giày gây tiếng ồn.
Về viên tướng,
tôi nhận ra là Trung-Tướng Trần Văn Ðôn. Hôm
mới ra thay Trung-Tướng Thái Quang Hoàng, trong một
buổi lễ tại Phu Văn Lâu, Ðôn đã bắt đầu
diễn-văn bằng câu “Quân Dân Miền Trung!” Tôi
nghe kể lại, chỉ một lát sau là “Cậu” được
nghe báo-cáo, liền phán “Hắn muốn lãnh đạo
cả Dân ngoài ni nữa răng?”
Họ cúi đầu chào
Ô. Cố-Vấn nhưng ông không đáp lại.
Họ bèn nhập chung với một số khác đã đến
trước, đứng sắp hàng quay mặt vào bức chân
dung của Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm để
trên một chiếc bàn cao trong phòng khách chính, xong
cất tiếng đồng-thanh hát bài “Suy-Tôn Ngô
Tổng-Thống”, như lệ thường mỗi lần
bắt đầu một buổi lễ hoặc buổi
họp.
Có đến hai bài
“suy-tôn” khác nhau, một của Miền Trung và một
của Miền Nam, nên nhịp và lời của hai bài chõi
nhau, nghe rất chói tai.
Bỗng có tiếng
đằng-hắng trong nhà. Ô. Cố-Vấn liền nạt:
–
Ồn! để cụ nghỉ!
Thế là mọi người nín bặt, lấm-lét tan hàng.
Trong lúc họ chưa biết giấu mặt ở đâu thì
các gia-nhân ra hiệu cho họ đứng vào hai bên các dãy
bàn tiệc mà bắt đầu ăn.
Lát
sau, ông Cố-Vấn đi ngang qua các bàn ăn, nhìn chung,
hỏi chung:
–
Ngon không?
–
Dạ ngon! “Cậu” cho ăn ngon quá!
Nghe mọi người đồng-loạt khen, ông nở một
nụ cười khoan-khoái, xong tiếp-tục đi ngắm-nghía,
sờ-mó không biết chán các món quà đắt giá mà các
cấp chức quyền từ khắp nơi trong nước và
ngoài nước dâng về.
Trước
mắt tôi, hình-ảnh của “Cậu”
Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn vẫn quen thuộc như
những lần ông chủ-tọa các cuộc thi rước
xe hoa vào những dịp lễ lớn trong năm.
Mỗi
cơ-quan dân-chính và quân-sự đều thực-hiện
một cỗ xe hoa, với nhiều cỡ, nhiểu
kiểu, nhiều cách khác nhau, nhưng tựu-trung thì đều
rước ảnh của Ngô Tổng-Thống và được
trang-trí đèn hoa rực-rỡ vô cùng. “Cậu” đứng
trước cổng nhà, vừa nhai trầu vừa quạt, nhướng
mục-kỉnh chiêm-ngưỡng từng công-trình
nghệ-thuật trẩy qua, và dễ dàng đồng-ý
với những lời phê-bình cũng như chấm điểm,
định mức thưởng tiền, của các
“cố-vấn” hầu-cận hai bên.
Tự-nhiên tôi thấy ông hiền-lành quá, vô-tư quá. Người như thế này mà có quyền sinh-sát đối với mọi người sao ?
LỆNH...
LẠC
Ngoài ông Chánh Văn-Phòng, mà một số người
cho là có hiểu biết, còn có một số sĩ-quan
quân-lực được biệt-phái đến làm việc
tại Văn-Phòng Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn.
Ông Hồ Văn Huế, một đồng-nghiệp đàn anh
của tôi, là một tín đồ Ky Tô có đạo đức,
đã có lần than-thở với tôi:
– Té ra mạnh ai thì nấy báo-cáo lên “Cậu”;
chỉ cần nói khích một câu, tỉ như “Tên này
phản-loạn, dám chống lại Ngô Tổng-Thống và
Cậu!” thì nếu đề-nghị giết chết
“Cậu” cũng gật đầu liền. Nhưng trong đa-số
trường-hợp họ có trình lên “Cậu” đâu !
Quyền-hành của
Cẩn tuyệt-đối như thế nên dân-chúng gọi ông
là “Lãnh-chúa Miền Trung”. Thật ra, quyền-hành
của ông cũng bao trùm cả Miền Nam, là lĩnh địa
của ông anh, Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu. Một
thi-hữu của tôi, Hồ Ðình Phương, của
Tỉnh Long-An, và một số thành-viên khác thuộc các
phái đoàn từ các Tỉnh trong Nam ra Huế họp đại-hội
Ðảng Cần-Lao, đã xác-nhận với tôi điều
đó.
Không có học-lực và kiến-thức như các ông Diệm, Nhu, ông Cẩn chỉ là một thứ hào-mục hãnh-tiến, bỗng-nhiên thấy được người ta tôn lên thì được hưởng lợi chứ chẳng thiệt gì, nên để mặc cho thủ-hạ lèo-lái, vẽ-vời. Ông chỉ đáng khen trong có một việc là lòng hiếu-kính đối với mẫu-thân, góa-phụ của cụ Ngô Ðình Khả.
Và chính cụ-bà cũng được nhiều người
ngợi-ca vì lòng “trung-quân”. Người ta
kể lại rằng, khi lăng của chồng đã được
xây xong, cụ-bà lên ở trên lăng. Ðức Ðoan-Huy
Hoàng Thái Hậu, tức Ðức Từ-Cung, mẹ
của Cựu-Hoàng Bảo Ðại, thấy cảnh
miếu đường hoang-phế mà không được chính-quyền
chiếu-cố, bèn lên gặp cụ-bà để xin nói giúp
với anh em nhà Ngô. Cụ-bà nghe tin, đang bệnh mà cũng
gắng dậy xuống đón từ dưới mấy cấp
thềm, toan phủ-phục trước người mà cụ-bà
tưởng vẫn còn là quốc-mẫu nên vẫn
thủ-phận chồng+con mình là bề-tôi của quân-vương.
Ðiều tai-hại hơn hết là không có ai dám kiểm-chứng lệnh của Ô.Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn.
Thường thì mọi người chỉ biết tuân lệnh, do nghe kẻ khác nói lại, mà không biết là nói lại hay là nói đại. Mà do chính miệng của ông nói ra lắm khi cũng chẳng hẳn là lệnh-lạc gì hết.
Một
thí dụ đầy tính tiếu-lâm được truyền
miệng trong giới an-ninh:
Một
trong những tay chân đắc-lực của Cẩn là Ô. Lê Hoát, Trưởng Ban Hoạt-Vụ thuộc
Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần. Mọi việc
bắt-bớ, đọa đày, hãm-hại, v.v... đều
nằm trong tay Hoát. Thế mà...
Dạo
ấy ở Tỉnh Quảng-Ngãi có sự
rối-loạn. Ty Công-An liên-hệ điện xin Nha
Trung-Phần tăng-cường gấp một số nhân-viên.
Vì Hoát có nhiều nhân-viên nhất nên Phòng Nhân-Vụ
đề-nghị rút bớt một số. Hoát chỉ
cho lấy một người, là người mà Hoát tưởng là
không thiết-yếu vì không thấy đến báo-cáo công-tác
hằng ngày. Và người ấy nhận được
sự-vụ-lệnh thuyên-chuyển từ Huế vào
Tỉnh Quảng-Ngãi.
Kế
đó, một hôm Ô. Cố-Vấn đi ra sau vườn thì
thấy có một thuộc-viên nằm lăn-lộn trước
chân ông mà khóc; ông tránh, người kia lại tái diễn,
khóc to hơn. Ông hỏi vu-vơ:
–
Cha mi chết hay răng mà mi khóc dữ thế?
Ðươc
ông hỏi đến, người giữ vườn kêu gào
thảm-thiết:
–
Không phải một mình cha con chết, mà chính con,
rồi cả gia đình nhà con đều sẽ chết
hết, “Cậu” ơi! Người ta không muốn cho con
tiếp-tục ở đây để được hầu-hạ
“Cậu”, “Cậu” ơi!
–
Rứa người ta đưa mi đi mô ?
–
Việt-Cộng giết người tùm-lum trong Quảng-Ngãi,
mà người ta đưa con vô trong đó!
–
Ai đưa mi đi ?
Người
ấy vốn đã có đến năn-nỉ với Phòng
Nhân-Vụ đề xin ở lại, nhưng được nơi đây
giải-thích là chính Hoát đã quyết định cho đương-nhân
ra đi. Người ấy liền đáp:
–
Dạ, Lê Hoát đưa con đi!
Ông
Cố-Vấn vừa bước tiếp vừa nói khống:
–
Răng hắn không đi mà đưa mi đi ?
Mọi
lời nói của “Cậu” đều được truyền đi
tức-thời .
Thế
là Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần ký
sự-vụ-lệnh khác, để nhân-viên kia lại, và
đưa ... Lê Hoát đi !
Một
thời-gian sau, một hôm ông Cố-Vấn sực nhớ
mới hỏi:
–
Thằng Hoát mô rồi mà lâu ni tau không thấy hắn?
Thế
là Quát lại được thuyên-chuyển từ Ty Quảng-Ngãi
về lại Nha!
Dân-chúng
cũng đàm-tiếu với nhau: Bà Cố-Vấn Ngô
Ðình Nhu, lãnh-tụ Phong-Trào Phụ-Nữ Liên
Ðới và Ðoàn-Thể Thanh-Nữ Cộng-Hòa
của toàn-quốc, tức là gồm cả Miền Trung,
những lần ra Huế thường tránh gặp mặt
“Cậu”. Trung-Tướng Thái Quang Hoàng, nguyên Tư-Lệnh
Ðệ-Nhị Quân-Khu, mà tổng-hành dinh đóng ở
Huế, vốn là một sĩ-quan sủng-ái được thăng
cấp vùn-vụt, mà rồi cũng bị thất-sủng
vì bị dèm pha. Ông Trần Chánh Thành, là người
được chính Ô. Ngô Ðình Diệm chọn đưa từ Pháp
cùng về với mình, cử làm Bộ-Trưởng
Bộ Thông-Tin, phụ-trách Chiến Dịch Tố Cộng
và Phong-Trào Cách-Mạng Quốc-Gia, mà rồi cũng
va-chạm với uy-lực của “Cậu” về
quyền lãnh đạo các tổ-chức và hoạt động
này tại Miền Trung...
Tôi tự hỏi không biết có phải chính “Cậu” đã chủ động, đã chủ động nổi, trong các vụ này, hay là bị bọn ác-ôn côn đồ gài bẫy, mạo danh...
VỤ
GIÁN ÐIÊP PHÁP TẠI MIỀN TRUNG
Sau khi Pháp, do áp-lực của Mỹ, rút quân ra
khỏi Việt-Nam, một số kiều dân Pháp vẫn còn
ở lại; họ điều-hành các đồn điền
cao-su, cà-phê, trà, và các nhà máy điện, nước, lữ-xá,
tiệm ăn, v.v... Ngoài ra, còn có các nhà
ngoại-giao ...
Ở Huế, có một Phòng Thông-Tin Pháp, mà Giám Ðốc là Ô. Avril, một người Pháp lai Việt, sinh sống từ nhỏ tại Thành-Phố này. Tôi đã giới-thiệu để Avril làm quen với Ô. Thompson A. Grunwald, khi ông này đến nhậm chức Giám Ðốc Thông-Tin Hoa-Kỳ ở Huế. Trong lúc chưa có Tổng Lĩnh-Sứ, Grunwald là đại diện Mỹ đầu tiên đến Miền Trung.
Ðối với dân-chúng địa-phương thì sự quen
biết đã có từ trước và những giao-tiếp
không thể tránh được sau này của Avril với
những nửa-đồng-bào xung quanh đã gây tai-họa
không ít cho nhiều con dân Việt-Nam.
Trong chương-trình
“đả-thực, bài-phong, diệt-cộng”, mà
“thực” ở đây là thực dân Pháp, các cơ-quan an-ninh
sở-tại cho biết đã khám-phá được một
tổ-chức gọi là “gián điệp Pháp tại
Miền Trung”.
Trong những năm đầu
sau Hiệp Ðịnh Genève, Liên-Xô và Hoa-Cộng chưa
chủ-trương cho Cộng-Sản Bắc-Việt xâm-chiếm
Miền Nam; nhờ đó, đa-số các cấp chính-quyền,
nhất là ở nhiều Xã Thôn, đã có hoàn-cảnh
thuận-lợi để loại-trừ các phần-tử có
liên-hệ hoặc bị nghi có dính-líu với ba kẻ thù
kể trên. Trung-Ương cho phép mỗi Xã lập nên
một “Hương-Ước” riêng của mình; đó là
những quy định tội-trạng và hình-phạt có
giá-trị pháp-lý, nằm ngoài và bổ-sung luật-pháp
và luật-lệ chung của Quốc-Gia. Chính-sách
của Chính-Quyền Quốc-Gia thời Ðệ-Nhật
Cộng-Hòa là phục-hồi “Lệ Làng”, một
thứ quyền tự-trị của các hương-chức
thời xưa; đúng với tuc-ngữ “Phép Vua thua Lệ Làng”.
Giải-pháp giàn-tiện hơn hết là trục-xuất
tất cả các đối-tượng “phản động” ra
khòi quê-quán của họ. Nhân dịp có cái
gọi là “quốc-sách” Ấp Chiến-Lược và Dinh
Ðiền, nhà cầm quyền tống họ lên vùng
Cao-Nguyên, cùng với các thành-phần bất-hảo khác ―
cựu-can hình-sự, đồ đệ “Tứ Ðổ
Tường”, cá-nhân lừng-khừng ―
sống tập-trung chung trong các Ðịa Ðiểm Dinh
Ðiền, là nơi Hoa Kỳ viện-trợ dồi dào để
giúp các giới dân nghèo Việt Nam tái định-cư
kiến-tạo đời sống ấm no, thanh-bình, và
thịnh-vượng lâu dài cho tương-lai.
Tuy nhiên, đó mới
chỉ là bề mặt, nhất-thời. Thật ra,
ngay sau khi chính-quyền Ngô Ðình
Diệm ra đời, những kẻ có liên-hệ
chặt-chẽ với Pháp, với Hoàng-Tộc, với
Việt-Minh, hoặc bị tổn-thương quyền-lợi cá-nhân,
đều đã tìm cách tự-tồn. Họ trá-hình
quy-phục, hoặc ngụy-tạo lý-lịch, đổi
vùng sinh-hoạt; hoặc rút lui vào bóng tối, hoạt động
bí-mật; hoặc bất động chờ thời. Cao
điểm là sau khi Mặt Trận Việt-Minh tập-kết
cán-bộ và bộ đội ra Bắc; quân-lực Pháp giao
lại Miền Nam Việt-Nam cho Mỹ; chế độ
Diệm tịch-thu tài-sản của Pháp, lật đổ và
tịch-thu tài-sản của cựu Quốc-Trưởng
Bảo Ðại, phát động chiến dịch “Tố
Cộng”, đánh dẹp các giáo-phái, đàn-áp các chính đảng,
cấm Hoa-Kiều làm mười một nghề, v.v...
Có những chính-sách
đúng, nhưng bị phai mờ vì những chủ-trương
sai; và ngay những đường-lối tốt cũng bị
hoen-ố vì những việc làm xấu. Và
thiểu-số lạm quyền đã xử ức người
này, trị oan kẻ kia, đào hố sâu chia-rẽ và giúp
nẩy mầm phẫn-uất trong dân-nhân. Hạt nhân
đối-nghịch và khuynh đảo từ đó đã được
gieo ra.
Thật ra, người dân căm-hờn
thực dân, oán ghét tay sai, thù hận thành-phần thân Pháp,
nên ủng-hộ các nỗ-lực phát-hiện gián điệp
nước ngoài. Nhưng khi chính-viện không truy-tố
bị-can ra trước pháp-viện, lại sử dụng
luật rừng để bạo-hành đối với tù-nhân,
thì chiêu-bài “Dân-Chủ Pháp-Trị’ của chính-quyền
Ngô Ðình Diệm đã trở thành bịp-bợm
đối với người dân.
Vào một buổi sáng nọ, như để chứng-minh cụ-thể cho những luồng dư-luận lan tràn lâu nay, một số đồng-bào đã tìm đến tận nơi để nhìn thấy tận mắt thi-thể của một nạn-nhân: Ô. Võ Côn, cựu Phó Giám Ðốc Cảnh-Sát Công-An Trung-Việt, bị giết chết và vứt bỏ xác ở chân Núi Ngự-Bình.
THẦU-KHOÁN
NGUYỄN VĂN YẾN
Nhà thầu Nguyễn Văn Yến là một nhân-vật
tên tuổi được đồng-bào khắp Huế mến thương.
Sau ngày hồi-cư vào
năm 1947, Yến bắt đầu thu thuế tại chợ An
Cựu là một chợ nhỏ, mà thời-gian đầu dân-chúng
còn thưa-thớt nên chợ chưa có nhiều kẻ bán
người mua. Vợ anh cũng theo giúp chồng. Tuy
là chủ thầu nhưng cả hai đều đối xử
tử-tế với giới chịu thuế, nhẹ tay
với ai ít vốn, chước-miễn cho ai ít lời.
Nhờ làm việc
cần-cù, giao dịch khéo-léo, Yến đã tiến
từ thầu nhỏ lên thầu lớn, và đỉnh cao là
thầu được cơ-sở kinh doanh đồ-sộ của
anh+em Pháp-kiều Morin chính giữa trung-tâm thủ-phủ
của Miền Trung, đặt tên Nguyễn Văn Yến cho đại
Khách-Sạn và Diễn Ðường này.
Sự thành-công
của Yến là một gai nhọn trước mắt
những kẻ muốn chiếm độc-quyền khai-thác
hoặc chi-phối mọi nguồn lợi kinh-tài. Thế là
Yến bị bắt.
Vợ Nguyễn Văn
Yến bị bệnh hiểm-nghèo. Sau khi được
chữa lành, trước khi xuất-viện chị đã
được y-sư giải-thích và căn dặn kỹ-càng:
muốn sống thì đừng gần-gũi đàn ông.
Thương chồng,
chị đến gõ cửa khắp nơi; bao nhiêu tiền
của chị đem ra dâng nạp hết, nhưng vẫn không có
kết-quả. Cuối cùng, chị được đưa đến
ra mắt Ô. Cố-Vấn để cầu xin “Cậu”
thi-ân.
Nhờ ân
của “Cậu”, chị chết.
Nỗi đau thương của gia đình Nguyễn Văn Yến đã trở thành niềm căm-hận của mọi người: liền sau đó, chính Yến cũng bị giết chết trong tối-tăm.
THẦU
KHOÁN NGUYỄN ÐẮC PHƯƠNG
Là Trưởng-Phòng
Huấn-Luyện, trong thời-gian có Khóa Tu-Nghiệp
hoặc Khóa Anh-Ngữ Căn-Bản do tôi giảng dạy cho
cảnh-nhân toàn Thành-Phố, tôi thường đến sớm
để lo cho mọi thứ được chuẩn-bị
sẵn-sàng. Có nhiều lần tôi ngạc-nhiên
thấy Hội Ðường, mới chiều hôm qua còn
ngăn nắp, mà sao sáng hôm sau bàn ghế đã nghiêng
lệch và trên nền lầu vương vãi những lá lót,
giấy bọc, cùng nhiều loại thức ăn, đồ
uống thừa.
Những lần đầu,
tôi nghĩ là do toán nhân-viên gác đêm bày tiệc ăn
nhậu. Ðến lần nọ, tôi vào hỏi ông Đặng
Phong, Phó Cành-Sát-Trưởng
Một hôm, nhân vào Sài-Gòn lập
thủ-tục du-học Hoa-Kỳ, tôi gặp Ô. Nguyễn Văn Trí giữa phố. Trí là nhân-viên
Ðội Biệt Ðộng ở Huế; cùng đi với
anh có vài ba người nữa, đang ngồi trong một
chiếc xe hơi đậu bên lề đường. Anh dừng
lại chào hỏi tôi. Khi anh lên xe đi rồi, có
mấy người mà tôi thấy quen mặt đang ngồi trong
Nhà Hàng “Thanh Thế” vẫy gọi tôi vào. Họ là
công-chức, quân-nhân hoặc thường dân gốc ở
Huế, nay vào tùng-sự, thụ-huấn hoặc sinh
sống trong này.
Nhạc-sĩ
Châu Kỳ ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Ðừng bắt mình,
nghe Thanh-Thanh!” Tôi mở tròn mắt hỏi
lại: “Tôi làm gì mà bắt ai ?” Nhạc-sĩ
Lê Trọng Nguyễn liền vỗ vai Kỳ: “Thanh-Thanh chắc không dính vào những vụ đó đâu!”
Hồi
đó, Cảnh-Sát và Công-An là hai ngành khác nhau, mà tôi thì
ở bên phía tư-pháp hình-sự, không phải bên phía
chính-trị.
Một
người hỏi tôi: “Hôm nay các anh đã bắt được
bao nhiêu mạng rồi ?” Thấy tôi ngơ-ngác, một
người khác nói: “Bọn hồi nãy là
mật-vụ trong Ðoàn Công-Tác Ðặc-Biệt
Miền Trung, vào đây bắt người đấy!”
Tôi cũng có nghe nói
đến tổ-chức ấy, nhưng không biết là họ
thuộc cơ-quan nào, vì tại Nha và tai Ty Công-An
Tỉnh Thừa-Thiên thì chỉ có Ban Hoạt-Vụ,
Ban Lưu Ðộng, hoặc Ban Truy-Tầm gì đó thôi.
Không-khí
ở Sài-Gòn tự do hơn, nên mấy người này tranh
nhau kể toàn những chuyện cướp đoạt,
giam-cầm, tra-tấn, và thủ-tiêu dân lành, ở cả
Huế lẫn các Tỉnh gần xa.
Diệm thì huênh-hoang
tuyên-bố: “Ðằng sau Hiến-Pháp còn có tôi!”
để bị lũ gian-manh ngụy-tạo vườn cây sây
trái cho mà đến thị-sát, khoe-khoang; Nhu thì kìm
kẹp đối-lập ở P-42; vợ Nhu thì hùn-hạp
làm ăn bất-chính với vợ Trần Chánh Thành; Cẩn
thì thể-hiện hỏa-ngục ở Mang-Cá, hồ
lửa ở Chín Hầm...
Khi
nghe tôi làm việc ở Ty Cảnh-Sát Huế, một người
la lên:
–
Ðánh người ta vỡ đầu chết, rồi ném xác
xuống sân, tri-hô là người ta nhảy lầu
tự-tử, xong rồi vào đây lánh mặt hả?
Các
bạn khác cũng sững-sờ như tôi. Một người
ôn-tồn hỏi tôi: “Anh vào đây bao giờ?” Tôi đáp:
“Sáng thứ năm” Người ấy thở phào:
“Thế thì không phải là anh!”
Người kia nhìn
tôi dò xét, rồi như tin tôi, kể ngắn gọn:
– Chúng bắt
bừa, nhốt kín nhiều nơi, lâu lâu mới chở
một số đến Ty Cành-Sát cho gặp thân-nhân một
lần vào lúc nửa đêm. Tại đó, chúng cũng
khảo đả nạn-nhân. Án-mạng vừa rồi
xảy ra vào khuya thứ năm; tôi mới vào chiều hôm
qua; thứ sáu. Tội-nghiệp thầu-khoán Nguyễn
Ðắc Phương!
Tôi
nghe mà lặng điếng cả người.
Thì ra Hội
Ðường, nơi tôi truyền-bá lý-thuyết lý-tưởng
về nghiệp-vụ, nơi tôi phổ-biến đạo đức
chính-trị của Ngô Tổng-Thống, đã bị dùng
làm nơi chà đạp “nhân-vị” và sinh-mạng của con
người!
Trước
đó, tôi có gặp Nguyễn Ðắc Phương một
lần, tại nhà Giáo-Sư Nguyễn Như Minh. Minh là
thầy cũ của tôi ở “Thuận-Hóa
Học-Hiệu”. Ông vừa mới giao cho Phương, và
Phương vừa mới khởi-công xây-cất một
trụ-sở mới cho Trường Trung-Học Tư-Thục
Nguyễn Du.
Ngang đây thì tôi thấy Trung-Tá Ðoàn Ðình Từ, một người bạn thân của tôi, hiện làm Trưởng Ty Công-An Tỉnh Long-An, từ ngoài bước vào. Từ bị thương trong một trận chạm súng với Việt-Cộng, chân đi còn khập-khiễng. Ðể tránh đụng chạm, tôi kéo anh lên Nhà Hàng “Bồng Lai”.
Lát
sau, tôi hỏi anh về nạn độc-tài, tham-bạo; anh
lắc đầu thở dài: “Hết nước nói! Minh
chỉ biết diệt Cộng mà thôi!”
*
LÊ XUÂN NHUẬN CHỐNG CHẾ-ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM
VÀO dịp lễ Hai
Bà Trưng (3-3) năm 1960 (mồng 6 tháng 2 âm-lịch Canh Tý),
tôi thuyết-trình về tinh-thần ái-quốc của
Trưng Nữ-Vương, theo tài-liệu học-tập của
Trung-Ương phổ-biến.
Nguyễn Xuân Lại, lúc ấy cũng đã mãn
định-kỳ quân-nhiệm, trở về Ty Cảnh-Sát
Huế, cùng tham dự buổi họp.
Khi
đến câu “Quân của Hai Bà là quân ô-hợp nên bị
thất-trận”, tôi đã cố ý bỏ qua
từ đoạn “là quân ô-hợp”. Hội Ðường
thắc-mắc; nhiều người đưa ý-kiến là
phải đọc trọn câu, và đòi giải-thích hai
tiếng “ô hợp”. Tôi giải-thích tĩnh-từ
“ô hợp”, xong thanh-minh rằng tôi không muốn trong lúc
tưởng nhớ công đức của tổ-tiên anh-hùng mà
lại chê-bai phẩm-chất chiến đấu của
tiền-nhân:
–
Có lẽ soạn-giả sơ-ý. Theo tôi thì
chỉ cần nói “Hai Bà thua trận là đủ”, không
cần nêu thêm cái lý do ấy, nhất là nói về
khuyết nhược của mình. Vậy đề-nghị
các bạn khi về đơn-vị địa-phương thuyết-trình
lại cho các học-viên của mình thì bỏ
bớt mấy chữ đó đi .
Ngang
đây, Lại chất-vấn tôi:
–
Sự thật là “ô hợp” thì cứ nói là “ô
hợp”, anh muốn chống lại lịch-sử và cãi
lại tài-liệu của “Ban Chỉ Ðạo
Học-Tập Trung-Ương” ư ?
Cuộc
thảo-luận chung biến thành cuộc tranh-luận riêng
giữa hai chúng tôi.
Tôi
nói: “Tuy Ban Chỉ Ðạo Trung-Ương do ông Cố-Vấn
Ngô Ðình Nhu chủ-trì, nhưng ông chỉ đề
ra ý chính, làm sao kiểm-soát hết từng chữ?”
–
Tôi đã từng thảo diễn-văn cho các Ðơn-Vị-Trưởng,
họ dò rất kỹ trước khi đọc; anh cho là
ông Cố-Vấn không đọc kỹ à?
–
Tôi cũng đã từng thảo diễn-văn cho các tướng
Tư-Lệnh, đúng như anh nói. Nhưng đó là cho chính
miệng họ đọc ra, lâu lâu một lần. Ðằng
nầy, tài-liệu tổng-quát do nhân-viên phụ-trách
soạn chung cho mọi người, ào-ạt phổ-biến
mỗi tuần mấy đợt, trải qua nhiều năm
rồi, thì cũng chỉ giống như tờ báo định-kỳ
thông-thường ngoài phố mà thôi, làm sao tránh khỏi sơ-xuất?
–
Nhưng đây không phải là sơ-xuất, mà là nói lên sự
thật!
Tôi
đáp: “Ðồng-ý là sự thật. Tuy nhiên, đó
là ở trường đại-học, nghiên-cứu
sử-liệu chúng ta có thể tìm thấy nhiều điều
khác lạ; thí dụ tài-liệu của Trung-Hoa nói về
Hai Bà Trưng, có đăng trên báo của Viện Ðại-Học
Huế, do linh-mục Cao Văn Luận làm Viện Trưởng,
thì tàn-tệ hơn nhiều. Còn đây thì không
phải là một công-trình nghiên-cứu
lịch-sử ở trình độ bác-học, mà chỉ
là một bài học công dân giáo dục nhắm vào đa-số
bình dân, cốt để nhân ngày kỷ-niệm Trưng-Vương
mà khích động đồng-bào noi gương yêu nước của
Hai Bà; như thế thì chỉ cần đề-cập
những gì có lợi cho mục đích trước mắt
mà thôi”.
–
Nói như anh tức là cấp trên khinh thường dân-chúng,
chủ-trương ngu dân!
Tôi
thấy Nguyễn Xuân Lại đã vô-tình tạo
ra cơ-hội cho tôi lợi dụng mà nói lên những điều
cần nói công-khai :
–
Ở đây có ông Trần Văn Hương, Cảnh-Sát-Trưởng, vừa đi du-học ở
Mỹ về, đã thấy rõ sự khác nhau
giữa Mỹ với nước mình. Thế nhưng, tài-liệu,
mà chúng ta học-tập ở đây thì nói rằng
Hiến-Pháp của Việt-Nam Cộng-Hòa là
tiến-bộ hơn Hiến-Pháp của
Hiệp-Chủng-Quốc Hoa-Kỳ. Cũng thế,
học-tập về chế độ hiện-tại thì
chỉ toàn đề-cao những tốt lành ngay chính chứ
có ai phanh-phui những xấu dữ gian tà đâu !
Thế
là mọi người bỏ mất trọng-tâm. Hội
Ðường chia ra làm hai phe; đa-số thì đồng-ý
với tôi dẫn chứng từ những sai lầm
bất-công đến những gian tham tàn-ác của nhóm đặc-lợi
đặc-quyền; thiểu-số đắc-thời thì
chối-cãi, biện-minh. Không-khí quá găng;
chủ-tọa phải tuyên-bố giải-tán. Nhưng khi
ra khỏi phòng họp rồi họ vẫn còn phát-biểu
rất hăng.
Việc làm của tôi đã mở đường cho những chống đối công-khai và đồng-loạt của nhiều tập-thể lớn về sau (trước cả vụ phản-kháng của 18 nhà chính-trị tên tuổi tại Nhà Hàng Caravelle trong Sài Gòn. Nhà văn Nhất-Linh Nguyễn Tường Tam, bị kết án tử-hình, đã tự-tử, với kết-luận “đời tôi để lịch-sử xét” để phủ-nhận quyền-hành của chế độ nhà Ngô).
Riêng
trường-hợp của tôi đã gây nên mối bất-đồng
quan điểm giũa hai ông Cố-Vấn họ Ngô. Vây-cánh
của Ô. Cẩn thì muốn dùng biện-pháp
mạnh đối với tôi, nhưng Ô. Nhu thì tiến-bộ hơn nên nương tay.
Do đó, họ giao tôi cho Bộ Nội-Vụ áp dụng
kỷ-luật hành-chánh.
Sau
ba tháng bị cất chức, giam cầm, tôi bị ghép vào
thành-phần “phản-loạn” và bị đày lên Cao Nguyên
là vùng “nước độc và nguy-hiểm”, cùng với
bốn đồng-nghiệp khác; đó là hai viên-chức tham-mưu có uy-tín mà không chịu đứng
chung vào hàng-ngũ phá đạo hại đời, và hai viên-chức
hoạt-dịch cũng là tín đồ Ky-Tô-Giáo và
cũng là đảng-viên Ðảng Cần-Lao nhưng không đồng-hội
đồng-thuyền với họ nên họ cũng nhân
dịp này mà tống cổ đi luôn.
Suốt đời tôi không bao giờ quên được hình-ảnh của những Giám Ðốc, Trưởng Ty, công-chức các cơ-quan bạn, mà nhiều người trước kia tôi chưa hề quen, và rất đông đồng-bào vô danh, đã bất-chấp mật-vụ, lên ga xe lửa Huế ngậm-ngùi tiễn chúng tôi đi ...
*
Rồi
Diệm bị đảo-chánh hụt, rồi Dinh Ðộc-Lập
bị ném bom.
Vụ các chính-khách bất-đồng chính-kiến
họp tại nhà hàng Caravelle nổ bùng.
Nhà văn Nhất-Linh Nguyễn Tường Tam tự-tử
để phủ-nhận quyền-hành của chế-độ
nhà Ngô. Phật-Giáo
bị cấm treo cờ vào ngày lễ Phật-Ðản;
Phật-Tử Huế biểu-tình đòi quyền
tự do tín-ngưỡng, bị tàn-sát trước Ðài Phát-Thanh.
Diệm+Nhu cho Cảnh-Sát Chiến Ðấu tấn-công
chùa-chiền.
Hòa-Thượng Thích Quảng Ðức và nhiều
tu-sĩ, Phật-Giáo-Ðồ khắp nước tự-thiêu.
Sinh-viên học-sinh và các giới dân-nhân xuống đường;
toàn-quốc nổi dậy.
Thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu, Ngoại-Trưởng
VNCH, tự cạo trọc đầu từ-chức để
phản-đối Diệm; ngay chính ông Trần Văn Chương, đại-sứ
VNCH tại Mỹ, là cha ruột của bà cố-vấn Ngô
Ðình Nhu, và bà Trần Văn Chương, quan-sát-viên VNCH
tại Liên Hiệp Quốc, là mẹ đẻ của bà Nhu,
cũng cùng từ-chức để chống lại bè lũ
Diệm—Nhu đàn-áp Phật-Giáo.
Chính-giới Hoa Kỳ phẫn-nộ, dư-luận
thế-giới xôn-xao.
Cuộc Cải-Mệnh 1-11-1963 xảy ra.
Sau này, tôi chỉ-huy
Cảnh-Lực cấp Tỉnh trên Cao-Nguyên thì Nguyễn Xuân Lại cũng chỉ-huy
Cảnh-Lực ở Tỉnh Thừa-Thiên.
Một số bạn
cũ nói rằng Lại vẫn trung-thành với quan-niệm
sống của mình, cứ theo lý-thuyết sách
vở mà làm; theo đó, Luật-Pháp mới là nguyên-tắc
của trật-tự và an-ninh, nên anh phục-vụ; còn
Chính-Trị thì là phi-nguyên-tắc nên anh không tham-gia.
Anh chỉ chú-tâm riêng vào phần Hình-Cảnh, và phó
mặc phần Ðặc-Cảnh (có thể gọi là
Cảnh-Sát Chính-Trị) cho viên Phó Chỉ-Huy chuyên-trách
cầm nắm các vấn đề phe đảng, giáo-phái,
hội đoàn, tình-hình nội-bộ chính-quyền,
cũng như trực-tiếp giải-quyết
Tuy
không đối diện, đối-thoại, nhưng qua tin-tức
như trên, tôi vẫn thấy cần tranh-luận với Lại. Nếu anh chịu nhúng tay vào, thì
cơ-quan mà anh vẫn là người chịu trách-nhiệm chính,
chắc-chắn sẽ tránh được nhiều lầm sai.
Cùng lắm thì anh vẫn có thể công-khai nói lên
tiếng nói của mình, như tôi ngày xưa ?
Việt-Cộng
không bám sát anh, hoặc vì cơ-sở của chúng
hoạt động dở, hoặc do may-mắn tự-nhiên, mà
anh thoát chết ở Huế vào vụ Tết Mậu-Thân
1968. Anh trà-trộn với đồng-bào vào trốn trong
nhà thờ Dòng Chúa Cứu-Thế; khi địch đến
thanh lọc, anh đưa Thẻ Sinh-Viên trường Luật ra; chúng
không nhận diện ra anh.
*
Chừng nhớ ngày
xưa tôi rất ham thích Ngành Hình-Pháp, Nguyễn Xuân Lại nói:
– Mình không
ngờ Nhuận mà lại qua Ngành Ðặc-Cảnh.
Tôi
định đáp: “Mình cũng không ngờ Thêm mà lại
tham-chánh”, nhưng tôi nín kịp.
Một người
bạn thân khác của tôi, thi-sĩ Như Trị, tức
Luật-sư Bùi Chánh Thời, cũng có quan-niệm như Lại. Nhưng Thời không tham-chính; anh
hoạt động vì nhân đạo, cầm đầu chi-nhánh
của một tổ-chức quốc-tế Bảo-Vệ
Thiếu-Niên Nhi Ðồng tại Việt-Nam.
Mỗi người có
quyền theo đuổi lý-tưởng riêng của mình.
Tôi tôn-trọng quyền ấy. Nhưng vì Luật-Pháp
tự nó không có Tổ-Quốc, nên chính-thể nào cũng
dựa trên Luật-Pháp nói chung để làm ra Luật-Pháp
của riêng mình. Trong một Quốc-Gia, vào
một giai đoạn nào đó, phải chăng Luật-Pháp cũng
chỉ là sản-phẩm của Chính-Trị? Người
đã tham-gia vào Chính-Quyền, nhất là ở cương-vị
lãnh đạo, làm sao không dự phần vào chính-sách
chung?
Lại được mời làm Thứ-Trưởng
một Bộ. Dù là của Bộ Tư-Pháp đi nữa, thì
đó cũng là một phần của Ngành Hành-Pháp, và đó cũng
là một trách-vụ chính-trị. Anh nói là anh chưa
nhận, tức là đã nhận trên nguyên-tắc,
chỉ còn cân-nhắc một số điều-kiện
nữa mà thôi ?
Bị ám-ảnh vì
bóng ma quá-khứ, tôi sợ là anh sẽ lại rơi vào hai
trường-hợp khó-khăn: Lý-thuyết siêu-chính-trị
có thoát khỏi bị guồng máy chính-quyền
biến-thể? Và nhập-cuộc nửa vời có
phải là giải-pháp an ổn cho lương-tâm?
Thà Lại chỉ là luật-sư, hoạt động ngoài-chính-quyền
như Thời, đứng hẳn về phía đối-lập trong
dân-nhân, hoặc chỉ là huấn-sư trong một trường
Luật, hoặc công-khai đối-lập trong các
chức-vụ lập-pháp và dân-cử... Ðằng này,
trong cương-vị công-cử, nếu gặp
nghịch-cảnh, thái độ của anh sẽ như thế nào
...
Tuy nhiên,
lịch-sử cũng đã sang nhiều trang; cả Nguyễn Xuân Lại lẫn tôi, cũng như
mọi người, đều đã lớn hơn, khôn hơn.
Trên đường tiến tới Dân-Chủ, dân-nhân Miền
Nam Việt-Nam đã bước những bước khá dài.
Ít nhất thì, ngày xưa, hễ thiếu kính-trọng đối
với Ngô Ðình Diệm là cầm chắc cái
chết trong tay; nhưng, ngày nay, mọi người đều
tự do chỉ-trích, thậm-chí mạt-sát, Nguyễn Văn
Thiệu mà không hề-hấn gì. Giới trí-thức
phải hiểu rằng tài-năng, đạo đức,
thiện-chí, và kết-quả phục-vụ là những
yếu-tố cần-thiết để thẩm định giá-trị
của một con người. Ðã giỏi
Luật-Pháp, mà cũng rành về Chính-Trị và các Ngành
khác, hoặc ngược lại, thì tài-năng mới không
phiến diện; và đã tham-gia thì phải dấn
thân, có thế đạo đức mới vẹn toàn.
Tôi bắt tay Nguyễn Xuân Lại thật chặt, để mừng anh, và để truyền đạt qua anh niềm tin của tôi rằng bạn mình bây giờ nhất định đã tiến rất xa ...
Huế, 1973-75
GHI
THÊM:
Vào khoảng cuối thiên-niên-kỷ trước, tôi gặp
lại Nguyễn Xuân Lại tại một buổi
sinh-hoạt của Cựu CSQG Miền Bắc California ở
San Jose. Lại cho biết là
vừa được Cựu Tống-Thống Nguyễn Văn
Thiệu mời hợp-tác trong một chương-trình
tranh-đấu cho Quốc-Gia. Tôi
không biết nói gì, chỉ thành-tâm chúc anh thành-công mà
thôi.