TRUNG-TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG
Tư-Lệnh Quân-Đoàn I & Quân-Khu I Ngô
Quang Trưởng được hầu hết
mọi người khâm-phục. Ông đă dành nhiều tâm-trí,
công-sức, và th́-giờ vào các cuộc hành-quân hơn là
vào công việc văn-pḥng. Ông thường-xuyên mặc
chiến-phục, đội mũ sắt, mang áo giáp, bay
đến tận từng đồn+chốt khắp Quân-Khu,
để quan-sát, nghiên-cứu t́nh-h́nh tại chỗ, và
kiểm-tra tác-phong kỷ-luật của các cấp quân-nhân.
Bản-thân ông ít thích truy-hoan, nên cấm sĩ-quan
thuộc quyền đến khiêu-vũ ở các nhà hàng
ca+vũ+nhạc, khiến các Tỉnh-Trưởng và
Thị-Trưởng cấm luôn cả các pḥng trà ca-nhạc
tổ-chức khiêu-vũ cho bất-cứ giới khách hàng
nào.
Đó là tóm-tắt
những nét chính về tướng Trưởng
được nhiều người nhận thấy
hoặc đồn miệng với nhau.
Riêng đối với
tôi, ông c̣n là Đại-Biểu Chính-Phủ,
tức Thủ-Hiến, của Vùng
I, nhất là sau khi Ṭa Đại-Biểu Chính-Phủ đă
bị giải-tán, chức-vụ Phụ-Tá Hành-Chánh cho Tư-Lệnh
Quân-Khu cũng bị băi-bỏ luôn. Tư-Lệnh Quân-Đoàn/Quân-Khu
cử-nhiệm các Tiểu-Khu-Trưởng và Đặc-Khu-Trưởng
kiêm-nhiệm Tỉnh-Trưởng và Thị-Trưởng.
Tư-Lệnh Quân-Đoàn/Quân-Khu trực-tiếp điều-khiển
Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng sở-tại, đồng-thời
cũng là Chủ-Tịch Hội-Đồng B́nh-Định &
Phát-Triển cầm đầu công-tác chuyên-môn của
đa-số các Bộ quan-trọng thuộc Chính-Quyền
Trung-Ương thực-hiện trong lănh-thổ Quân-Khu ḿnh.
Tóm lại, Trung-Tướng Ngô
Quang Trưởng là Chính-Quyền
tại Miền Trung.
Tôi trích sao riêng gửi cho ông biết điều-khoản trong Sắc-Lệnh của Thủ-Tướng quy-định việc tôi, Giám-Đốc Ngành Đặc-Biệt cấp Vùng, trực-tiếp báo-cáo t́nh-h́nh lên Tư-Lệnh Quân-Khu, liên-quan đến an-ninh và chính-trị nội-bộ, thuộc thẩm-quyền của Đại-Biểu Chính-Phủ, là chức-vụ mà ông kiêm-nhiệm hiển-nhiên. Sau đó, tôi chính-thức tường-tŕnh lên ông những vấn-đề nội-chính của Quốc-Gia.
Khi người
lính ở trong quân-sở hoặc quân-cứ th́ quân-phong quân-kỷ
có thể được xem là việc riêng trong gia-đ́nh
Quân-Lực; nhưng một khi người lính đă đi
ra ngoài th́ mọi ngôn-ngữ cử-chỉ dù
nhỏ-nhặt cũng ít nhiều ảnh-hưởng đến
mối quan-hệ giữa Quân và Dân.
So với tổng-số
quân-nhân tại-ngũ th́ tỷ-lệ cá-nhân vô-kỷ-luật
chỉ là một con số nhỏ; nhưng những
việc làm sai-quấy của số ít này đă gây
bất-b́nh và ác-cảm không ít trong dân-nhân đối
với binh-giới nói chung, tạo thành một vấn-đề
trong lĩnh-vực chính-trị nội-bộ của
chế-độ Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Khi nào có một người
nào vi-phạm luật-pháp hoặc luật-lệ hiện-hành
mà mặc quân-phục rơ-ràng hoặc tự-xưng là quân-nhân,
th́ Cảnh-Sát chỉ cần báo cho Quân-Cảnh đến
chấp-lư mà thôi. Thế là Cảnh-Sát, ở đây, là
Cảnh-Sát Sắc-Phục, không theo dơi, thống-kê, phân-loại,
so-sánh tăng/giảm, t́m hiểu nguyên-nhân, v.v...; vả
lại, dù có muốn cũng không làm được, v́ không
biết rơ tính-danh, số quân-tịch, cấp-bậc,
đơn-vị, nội-dung sự phạm-pháp, cách
giải-quyết, và kết-quả thế nào.
Nhưng đó lại là
một vấn-đề nội-chính.
Nó thuộc phạm-vi nghiên-cứu của Ngành Đặc-Cảnh
(Cảnh-Sát Đặc-Biệt); nó xảy ra trong vùng
sinh-hoạt của người dân, là vùng mà tôi đă
đề-nghị và Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu sở-quan
đă đồng-ư giao cho Ngành Đặc-Cảnh chịu trách-nhiệm
về an-ninh chung; và nó cũng là một mục-tiêu
hoạt-động hằng ngày của chính trung-tướng
Ngô Quang Trưởng. Phải
bảo-toàn h́nh-ảnh tốt đẹp của người
chiến-sĩ đang hy-sinh xương máu trên chiến-trường;
phải duy-tŕ mối t́nh khắng-khít cá+nước quân
dân; phải xóa sạch mọi t́-vết, không để
cho kẻ thù khai-thác vơ đũa cả nắm chê-bai hàng-ngũ
Quốc-Gia chúng ta.
Lần đầu tiên là
vào cuối năm 1973, tôi nêu đề-tài này lên trong
một buổi họp đặc-biệt của nhóm người
tạm gọi là Ủy-Ban Phối-Hợp T́nh-Báo Quân-Khu
I, mà Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng
giao cho Đại-Tá Hoàng Mạnh Đáng,
Tham Mưu Trưởng, đại-diện, chủ-tọa
các buổi họp hằng tuần.
Tôi lấy quốc-lộ số I là con đường
bộ huyết-mạch nối liền từ thủ-đô
Sài-G̣n ra các Tỉnh Miền Trung
và miệt ngoài, đoạn từ Sa-Huỳnh
cực-Nam của Tỉnh Quảng-Ngăi
ra đến Đèo Hải-Vân
cực-Bắc của Tỉnh Quảng-Nam,
trong đó có Thị-Xă Đà-Nẵng,
để làm bối-cảnh điển-h́nh. Trên con
đường này, không những chỉ có sự đi
lại của mọi tầng-lớp và thành-phần dân-nhân,
các loại ngoại-kiều, mà c̣n có sự
hiện-diện thường-xuyên và tập-trung hoạt-động
của mọi cơ-quan và đơn-vị thi-hành
luật-pháp và duy-tŕ an-ninh trật-tự chung. Vào
thời-điểm đó, trung-b́nh hai tháng là có một
vụ quân-nhân dùng súng bắn bừa vào xe đ̣ chở
đầy hành-khách đang chạy trên quốc-lộ
số I, gây thương-tích cho một vài thường-dân.
Trong pḥng làm việc
của Đại-Tá Đáng có
một bộ-phận giống như chi-nhánh của
hệ-thống nội-đàm mà tôi đoán là máy chính
nằm trong pḥng làm việc của Trung-Tướng Trưởng.
Có lẽ ông đă mở máy mà nghe Ủy-Ban chúng tôi
thảo-luận những ǵ. Lần họp kế sau, Đại-Tá
Đáng khéo-léo nhắc chúng tôi đừng
đề-cập nhiều những vấn-đề
nội-bộ, ư nói v́ có Người Bạn Đồng-Minh
(viên-chức CIA cố-vấn của Đặc-Cảnh) và thông
dịch-viên cùng nghe.
Tôi c̣n nhớ ngày xưa,
khi tôi c̣n làm giám-đốc chương-tŕnh phát-thanh “Tiếng
Nói Quân Đội” tại Đệ-Nhị Quân-Khu, tôi
phải đệ-tŕnh bản thảo bài xă-luận
của tôi viết hằng ngày lên cho Thiếu-Tướng
(sau này là Trung-Tướng) Lê Văn Nghiêm,
Tư-Lệnh Quân-Khu, duyệt trước, để
được đọc trên Đài vào chiều cùng ngày và
được đăng trên báo “Tin Tức” phổ-biến khắp Quân-Khu vào
sáng hôm sau. Có một lần, bài xă-luận của tôi
nhắc-nhở tài-xế quân-xa tuân giữ luật-lệ
lưu-thông khi lái xe trên đường thành-phố.
Tôi quan-niệm rằng: khi một người lính, dù
là hạng chót (binh nh́), đứng gác ở một
cổng đồn, anh ta có quyền chận đường
một ông Bộ-Trưởng; khi một nhân-viên
Quan-Thuế (dù là hạ-đẳng) soát hàng ở một
phi-trường, anh ta có quyền lục xách một viên
đại-tướng; vậy th́, khi một đại-diện
Cảnh-Sát (dù là sơ-cấp) kiểm-soát xe cộ,
tại sao anh ta lại không có quyền chỉ dẫn đúng
luật đi đường cho các quân-xa? Tướng Nghiêm
phê vào bên lề bản thảo của tôi hai chữ “con
cú”. Pḥng Năm chúng tôi
đoán ư ông cho rằng bài xă-luận ấy có phần
cay-cú hoặc xoi-mói như “cú vọ” (?), nên đă
xếp bỏ. Phần
đông cấp trên không muốn nghe người khác nói
đến khuyết-điểm của cấp dưới
thuộc phần trách-nhiệm của ḿnh.
Tuy nhiên, việc của
tôi th́ tôi vẫn phải làm. Ngoài Tư-Lệnh Quân-Khu ra,
tôi c̣n báo-cáo lên Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương,
là Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới
Tây. Nơi đây chuyển lên Tư-Lệnh
Cảnh-Lực Quốc-Gia kiêm Đặc-Ủy-Trưởng
T́nh-Báo Trung-Ương, là Thiếu-Tướng Nguyễn
Khắc B́nh, để tŕnh tiếp lên
Tổng-Thống. Như thế th́ Trung-Ương vẫn
biết đến vấn-đề đó như thường.
Sau đó, tôi không tŕnh-bày
sự-việc nói trên trong các buổi họp như
thế nữa. Tôi làm công-văn báo-cáo hằng tháng lên Tư-Lệnh
Quân-Khu.
So-sánh th́ thấy, vào cuối năm 1973, trung-b́nh hai tháng mới có một vụ, gây thương-tích cho một vài thường-dân; nhưng đến mấy tháng đầu năm 1975, liền trước ngày thất-thủ Quân-Khu địa-đầu này, tổng-số thống-kê mỗi tháng đă lên đến cả chục vụ, gây cả tử-thương cho nhiều hành-khách, trong đó có một số là quân-nhân, và có lần cho cả một tu-sĩ của Đạo Ky-Tô.
Phong-trào
phản-đối Chiến-Tranh Việt-Nam ở Hoa-Kỳ
và một số nước khác đă mở đường
cho Hiệp Định Paris 1973. Hậu-quả
trầm-trọng và cụ-thể nhất là Mỹ giảm
bớt dần dần để rồi chấm dứt
hẳn viện-trợ cho Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Sau vụ
Việt-Cộng tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân năm
1968, hoạt động của Quân-Lực cũng như
của Đặc-Cảnh gia-tăng tối đa; do đó,
số cán-bộ, bộ-đội, và cơ-sở địch
bị bắt cũng gia-tăng rất nhiều. Chính-Quyền
phải xây-cất thêm trại tạm giam ở mỗi
Tỉnh, một số trại giam thuộc Trung-Ương,
và một trại tập-trung tại mỗi Vùng
Chiến-Thuật, để gom lại các phần-tử
nguy-hiểm được đưa từ các Tỉnh
về. Thật ra, trách-nhiệm của Ngành Đặc-Cảnh
chỉ giới-hạn trong việc bắt hung-thủ và
nghi-can, điều-tra, lập hồ-sơ truy-tố trước
Ủy-Ban An-Ninh, hoặc chuyển nội-vụ qua Ṭa Án Quân-Sự
Mặt Trận; c̣n th́ chỉ đích-thân tạm giữ
một số ít đối-tượng đặc-biệt
trong một thời-gian ngắn cần-thiết cho việc
hỏi cung hoặc xây-dựng thành mật-viên, tại
Trung-Tâm Thẩm-Vấn là nơi hội đủ các điều-kiện
tiêu-chuẩn tối-thiểu được sự
cố-vấn và yểm-trợ trực-tiếp của các
chuyên-gia Hoa-Kỳ. Ngoài ra, chế-độ giam-giữ và
đối-xử trước khi thành-án th́ thuộc
phần đảm-trách của các Trại Tạm Giam
ở phía Sắc-Phục của Bộ Chỉ-Huy
Cảnh-Lực, Trung-Tâm Cải-Huấn thuộc Bộ
Nội-Vụ, hoặc Trại Giam Tù-Binh Cộng-Sản
Việt-Nam thuộc Bộ Quốc-Pḥng; và sau khi thành-án th́
do Tổng-Nha Cải-Huấn hoặc Bộ Tổng Tham Mưu
quản-lư và kiểm-soát cho đến ngày các
đương-nhân được trả tự-do.
Tuy thế, Ngành Đặc-Cảnh
vẫn là cái đích chính của mọi sự chỉ-trích
liên-quan đến tù và trại giam. Do đó, Ngành Đặc-Cảnh
bị đặt trong một t́nh-trạng tiến/thoái lưỡng-nan.
Một mặt th́ hứng chịu phần lớn dư-luận
công-kích là chế-độ có quá nhiều tù và trại
giam: trại giam th́ thiếu tiện-nghi, mà tù th́ bị ngược-đăi,
thậm-chí tiếng lóng “bị nhốt chuồng cọp”,
là một h́nh-thức kỷ-luật áp-dụng ở đâu
ngoài Ngành Đặc-Cảnh, cũng bị dịch sai và
hiểu lầm một cách có ác-ư là tù bị nhốt
chung chuồng với cọp. Một mặt th́ phải rút
ngắn thời-gian điều-tra, lập hồ-sơ; riêng
tại Trung-Tâm Thẩm-Vấn th́ phải đi trước
các trại giam khác về việc: tăng thêm thức
ăn; trổ thêm cửa sổ; tăng thêm
hệ-thống ánh sáng và vệ-sinh, y-tế; giảm
bớt số người giam chung trong mỗi pḥng – nghĩa
là tăng thêm pḥng giam, nhưng đồng-thời lại
phải giảm bớt tổng-số pḥng giam!
T́nh-h́nh chung được
đặt dưới sự kiểm-soát thường-xuyên
và bất-thần của vô-số tổ-chức và nhân-vật:
trong Chính-Quyền th́ ngoài các Thanh-Tra nội-bộ từ
cấp Vùng lên đến cấp Trung-Ương c̣n có
Biện-Lư, các phái đoàn Viện Giám-Sát, Dân-Biểu, các
cơ-quan Y-Tế, Xă-Hội, v.v...; ngoài Chính-Quyền th́ có
các tu-sĩ thuộc mọi giáo-hội, các hội-đoàn
từ-thiện, các nhà báo, v.v..., chưa kể áp-lực
từ các nhóm tranh-đấu, như “Phong-Trào Đ̣i
Cải-Thiện Chế-Độ Lao-Tù”, v.v...
Căng nhất là vào
cuối năm 1972, giai đoạn chuẩn-bị gấp rút
cho Hiệp-Định Paris 1973, Chính-Quyền Trung-Ương
trù-liệu giảm bớt trại giam bằng cách đóng
cửa, hoặc bỏ bớt một số pḥng, và
giảm-thiểu tù bằng nhiều cách: chỉ giữ
lại một số can-phạm quan-trọng và nguy-hiểm
nhất, c̣n th́ trả tự-do cho những cá-nhân
được sự bảo-lănh của thân-nhân là công-chức
hoặc sĩ-quan cao-cấp của Việt-Nam Cộng-Ḥa;
cho những phần-tử có khai-báo thật-thà được
hưởng quy-chế hồi-chánh-viên; chuyển những
cán+cơ hoạt động có vũ-trang qua diện tù-binh
để trao trả cho đối-phương; phóng-thích,
nhưng chỉ định cư-trú, một số đông
những cựu-can, cựu-cán có tiền-án tiền-tích
hoạt-động cho Việt-Cộng, tuy không hội
đủ yếu-tố để bị kết tội giam
lâu nhưng bị xét thấy có hại cho an-ninh chung, và
những cán-binh tuy xin ra hồi-chính nhưng tránh né khai-báo
và có chỉ-dấu là trá-hàng, v.v...
Ngoại-trừ các tù-nhân đang c̣n thụ-án và các
tù-binh đang chờ được trao trả cho bên kia,
tất cả các thành-phần trên đều là đối-tượng
cho Ngành Đặc-Cảnh giám-thị, theo dơi, và nếu
cần th́ đương-đầu. Nhưng Ngành Đặc-Cảnh
lại không được hỏi ư-kiến về nơi
chỉ định cư-trú cho các đối-tượng
này.
Thời-gian đó, nhiệm-sở của tôi là Vùng
II. Một hôm, trong một buổi họp của Bộ Tư-Lệnh
Quân-Khu II, tại Nha Trang, Phó Tư-Lệnh là Đại-Tá
Nguyễn Cắt, chủ-tọa,
đă ra lệnh cho Bộ Tham-Mưu thuộc quyền
hội-ư với các Tỉnh-Trưởng để
chọn một Tỉnh trong Quân-Khu làm địa-hạt
chỉ-định cư-trú chung cho tất cả các
cựu-can, cựu-cán và hồi-chánh-viên đặc-biệt
nói trên tập-trung về từ các Tỉnh và Thị-Xă
khác khắp Quân-Khu.
Bộ
Tư-Lệnh Quân-Khu II không mời Bộ Tư-Lệnh
Cảnh-Lực Vùng II cùng
dự buổi họp này.
Bản-thân tôi vốn có những quan-hệ công-vụ
chặt-chẽ với các sĩ-quan cao-cấp đứng
đầu các cơ-quan Quân-Báo và Quân-An ở cấp Quân-Đoàn
và Quân-Khu, nên tuy không được mời đến nhưng
tôi vẫn lợi-dụng điều đó để
đến dự các buổi họp nội-bộ của
họ mỗi sáng sớm tại Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn/Quân-Khu.
Qua việc làm của Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II, tôi
thấy rơ là Trung-Ương muốn thay thế các
trại giam hữu-h́nh, mà diện-tích chỉ
xấp-xỉ một ô phố, bằng những trại
giam vô-h́nh, mà sức chứa là lĩnh-thổ của
cả một Tỉnh, vô vàn rộng lớn hơn.
Biện-pháp ấy chắc-chắn sẽ bị đả-phá
dữ-dội hơn, nhất là bởi giới truyền-thông
nước ngoài, tai-hại vô cùng cho chế-độ
Miền Nam. Không thể im-lặng đồng-t́nh, tôi
đă đứng lên phát-biểu ư-kiến:
“Tôi tin là sẽ không có một Tỉnh-Trưởng
nào, nếu thật-sự là Tỉnh-Trưởng, mà
lại thuận nhận cho Tỉnh ḿnh trở thành một
địa-phương quản-thúc tù.” Đại-tá Cắt
bất-b́nh, nh́n thẳng mặt tôi: “Anh tưởng là tôi
không trừng-phạt được các Tỉnh-Trưởng
nào không tuân lệnh của Quân-Khu sao?”
Cũng như phần
đông các nhà lănh-đạo ở cấp quốc-gia, ông
quan-niệm mỗi Tỉnh-Trưởng chỉ là một
Tiểu-Khu-Trưởng, nên lấy con mắt quân-sự mà
nh́n chính-sự, và áp-đặt mệnh-lệnh hành-pháp
bằng kỷ-luật nhà binh.
Sau khi nghe ư-kiến
của tôi qua thông-dịch-viên, các viên-chức cao-cấp
trong Bộ Tư-Lệnh Cố-Vấn Quân-Sự và
Viện-Trợ Kinh-Tế của Hoa-Kỳ đă đưa
ngón tay cái chĩa lên trời về phía tôi mà gật
gật đầu. Thấy thế, tôi không nói ǵ thêm.
Sau đó, không có
Tỉnh nào được chọn làm lĩnh-thổ
quản-thúc tù chính-trị cho toàn Vùng II.
*
Biện-pháp áp-dụng
từ đó cho đến sau ngày đă có Hiệp-Định
Paris là cho trở về quê cũ, người nào làng
nấy, cư-trú cố-định và hạn-chế đi
lại, các cựu-can cựu-cán và hồi-chính-viên đặc-biệt
mà tin-tức t́nh-báo cũng như nhận xét của các
giới-chức Cải-Huấn thuộc Bộ
Nội-Vụ và Phục-Hoạt thuộc Bộ Chiêu-Hồi
đă xếp vào loại “ḿn ngụy-trang”, “khổ-nhục-kế”,
chưa cho phép tự-do hoàn-toàn. Tùy theo sự xếp
loại, các phần-tử ấy phải đến tŕnh-diện
mỗi tháng, mỗi hai tuần, hoặc mỗi tuần,
tại Pḥng Đặc-Cảnh Quận sở-tại; tại
đây, nhân-viên chuyên-trách có lập một cuốn
sổ, để các đương-nhân khi đến th́
ghi tên, tuổi, địa-chỉ, ngày giờ đến
tŕnh-diện, và kư tên vào, làm bằng-chứng đă
được kiểm-soát để lưu hồ-sơ.
Tại Vùng I, tin-tức
nội-tuyến cho biết có một số phần-tử
thuộc diện nói trên đă tái-hoạt-động cho
Việt-Cộng. Tôi liền đích-thân đến thử
một số Xă thuộc Tỉnh Quảng-Nam để t́m
hiểu tại chỗ xem sao.
Về việc tŕnh-diện: có một số người
liên-hệ đă ăn nên làm ra, hoặc đă trở thành
đảng-viên quan-trọng của Việt-Nam Quốc-Dân
Đảng, không c̣n đến tŕnh-diện tại Pḥng Đặc-Cảnh
Quận hoăc Cuộc Cảnh-Sát Xă nữa, mà chính nhân-viên
hữu-trách phải mang sổ đi t́m, bất-cứ
ở đâu, lúc nào, có khi gặp rồi mà c̣n phải
chờ chực, để được đối-tượng
kư-chỉ vào sổ tŕnh-diện, cho có h́nh-thức là
đă kiểm-soát họ rồi.
Về việc chỉ-định cư-trú và
hạn-chế đi lại: dân-chúng được tự-do
đi lại và cư-trú; trừ một ít trường-hợp
đặc-biệt, Cảnh-Sát không soát xét tờ khai gia-đ́nh;
Cảnh-Sát cũng ít phối-hợp công-tác với Xă-Trưởng.
Do đó, có một số phần-tử nguy-hiểm đă
rời khỏi địa-phương; họ được
các Chủ-Tịch Ủy-Ban Hành-Chánh Xă nguyên-quán cấp
giấy phép cho chính-thức ra đi, nhất là vào các
thị-xă, đặc-biệt là vào Đà Nẵng, là
những nơi họ bị cấm đến, để
thoát khỏi sự kiểm-soát của cơ-quan an-ninh và
dễ tái-hoạt-động sau khi đă đổi vùng.
Lúc đầu th́ ít, về sau th́ càng ngày càng nhiều.
Cả một vấn-đề hệ-trọng như thế, mà mấy năm trời không ai hay biết ǵ.
Vào
khoảng cuối năm 1973, trung-b́nh vài tháng mới có
một vài thanh-nam miền quê vắng nhà lâu ngày; điều-tra
th́ được biết họ đă lén-lút vào rừng
theo cộng-quân.
Tôi cũng cho lập bảng thống-kê hằng tháng
về sự-kiện này th́ thấy con số mỗi ngày
một gia-tăng.
Cũng như đối
với các vấn-đề khác, tôi ra lệnh cho cấp dưới
ghi-nhận, báo-cáo, lập bảng thống-kê, rồi so-sánh
mức-độ và cường-độ tăng/giảm
thế nào, không phải chỉ để biết suông mà
thôi. Tôi đă chỉ-thị cho các Sở Đặc-Cảnh
Tỉnh tŕnh lên Tỉnh-Trưởng sở-tại với
đề-nghị có biện-pháp ngăn+trừng. Tôi cũng
đă tŕnh lên Tư-Lệnh Quân-Khu, đồng-thời tŕnh
lên Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, để
các nơi này tŕnh tiếp lên cho Tổng-Thống
được biết về vấn-đề này.
Về phần Cảnh-Lực th́ tại mỗi Xă cũng
như mỗi Phường đều có một Cuộc
Cảnh-Sát, nhưng chỉ là Cảnh-Sát Sắc-Phục,
kiểm-soát vệ-sinh, điều-khiển lưu-thông,
kiểm-tra dân-số, chấp-lư các vụ vi-phạm
luật-lệ h́nh-sự và thể-lệ hành-chánh
hiện-hành. Đúng ra th́ họ cũng có bổn-phận ngăn-chận
không để người dân từ vùng Quốc-Gia
di-chuyển qua vùng cộng-sản, v́ là vi-phạm quy-định
hành-chánh; nhưng phần lớn họ chỉ
giới-hạn nhiệm-vụ trong việc
thỉnh-thoảng xét hỏi giấy tờ những người
khả-nghi, c̣n những ǵ hằng ngày có liên-quan đến
cộng-sản, tức là chính-trị, th́ họ phó
mặc cho Ngành Đặc-Cảnh đảm-đương.
Vậy mà Trung-Ương không thiết-lập cơ-cấu
Đặc-Cảnh xuống thấu cấp Xă, mặc dù
Việt-Cộng từ xưa đă biết xây-dựng cơ-sở
từ cấp Tổ Tam-Tam leo lần lên cấp Khóm Thôn,
trong từng Xă một, rồi tiến lên cấp cao hơn.
Để đối-phó
với Việt-Cộng ở cấp Xă, Bộ Tư-Lệnh
Cảnh-Lực Quốc-Gia chỉ-định Trưởng
Cuộc Cảnh-Sát Xă kiêm-nhiệm đại-diện Ngành
Đặc-Cảnh tại địa-phương ḿnh; nhưng
hầu hết các viên-chức này không am-thạo, mà cũng
không ham-thích, công-tác chính-trị và phản-gián, vả
lại không có nhân-viên đặc-trách tại Cuộc
để giữ phần-hành chuyên-môn, nên tuy có đại-diện
mà cũng gần như không. Dù theo lư-thuyết th́
mỗi Cuộc đều có một vài nhân-viên phụ-trách
Chương-Tŕnh “Phụng Hoàng”, xem như để
đương-đầu với Việt-Cộng, nhưng
trên thực-tế th́ đa-số các nhân-viên này chỉ
là những kư-sự văn-pḥng, lấy tài-liệu từ
Ủy-Ban Phụng-Hoàng Quận, hầu hết do Ngành Đặc-Cảnh
cung-cấp, để lập hồ-sơ, thống-kê,
biểu-đồ, về t́nh-h́nh hạ-tầng cơ-sở
địch, chỉ để thuyết-tŕnh mỗi khi có
phái-đoàn đến thanh-tra hoặc mang đi họp,
chứ hiếm khi tự ḿnh thu-thập tin-tức hoặc
tự ḿnh t́m bắt tên Việt-Cộng nào.
Về phần chính-quyền Xă th́ tuy có một
Ủy-Ban Hành-Chánh nhưng nhiều nơi mọi việc
đều do một ḿnh Xă-Trưởng nắm trong tay.
Thật ra, các vấn-đề quan-trọng đều do
chính-quyền Quận chủ-tŕ. Xă-Trưởng chỉ
dự họp, dự lễ, kư các loại hộ-sự
chứng-thư; cũng có nơi th́ lập danh-sách
nhận tiền trợ-cấp di-tản, bồi-thường
thiệt-hại chiến-tranh, v.v... Hầu hết Xă-Trưởng
đều không quan-tâm đến việc dân làng bỏ
trốn theo đối-phương; nhưng, dù có bận ḷng
th́ cũng không làm ǵ được, v́ không có lực-lượng,
không chỉ-huy được Cảnh-Sát hay Nghĩa-Quân.
Đa-số Xă-Trưởng chỉ có mặt trong Xă vào ban ngày,
c̣n ban đêm th́ về ngủ ở quận-lỵ
hoặc tỉnh-lỵ cho được an-toàn.
Trong t́nh-trạng chiến-tranh, ṇng-cốt của chính-quyền
Xă là một trung-đội Nghĩa-Quân, do một hạ-sĩ-quan
thuộc Chi-Khu biệt-phái đến chỉ-huy. Lực-lượng
quân-sự này canh gác một số yếu-điểm vào
ban đêm. Từ năm 1973, Quân-Lực thành-lập thêm
một tổ-chức lănh-thổ cấp Xă, gọi là Phân-Chi-Khu,
do một sĩ-quan chỉ-huy đơn-vị Nghĩa-Quân
nói trên. Phân-Chi-Khu hầu như là một văn-pḥng
tham-mưu hơn là một bộ chỉ-huy hành-quân. Và không
phải Phân-Chi-Khu-Trưởng nào cũng ở lại
tại Xă vào ban đêm.
Phân-Chi-Khu-Trưởng, có lính dưới quyền,
trở thành một thế-lực mâu-thuẫn với Xă-Trưởng.
Trong một đại-hội Phân-Chi-Khu thuộc Quân-Khu I
tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Nghĩa-Quân Ḥa-Cầm,
ở ngoại-ô Đà-Nẵng, do
Tổng-Thống Nguyễn Văn
Thiệu chủ-tọa, nhiều Phân-Chi-Khu-Trưởng
đă chỉ-trích các Xă-Trưởng là già-yếu,
học-lực thấp, thiếu năng-động, v.v...
trong lúc không có mặt các Xă-Trưởng.
Tổng-Thống Thiệu đă
gợi ư cho các Phân-Chi-Khu-Trưởng kiêm-nhiệm Xă-Trưởng
thay thế các người này. Báo-chí đă tường-thuật
cái nhíu mày của Đại-Sứ Hoa-Kỳ,
và đặt câu hỏi: tổng-thống nghĩ ǵ khi
đ̣i xóa bỏ tư-cách dân-cử của Xă-Trưởng,
là nhân-vật được dân bầu vào Hội-Đồng
Xă và Hội-Đồng này cử ra, trong lúc Hội-Đồng
Xă là một đơn-vị dân-cử cơ-bản trên
đường dân-chủ-hóa để c̣n tiến
tới bầu-cử Quận-Trưởng, Tỉnh-Trưởng,
Thị-Trưởng, là các cấp c̣n lại trong
hệ-thống Chính-Quyền Quốc-Gia?
Dân làng bỏ theo Việt-Cộng là một căn bệnh truyền-nhiễm. Chính-Quyền đă không ngừa bệnh mà cũng không chữa bệnh đúng cách. Chế-độ không chịu nh́n thấy những nguyên-nhân đánh mất niềm tin của người dân, và cũng không chịu chọn những phương-sách thích-ứng để khôi-phục lại niềm tin ấy, v́ đă đặt quân-sự lên trên chính-trị và dân-sự, cả sau khi t́nh-h́nh đất nước đă mở vận-hội cho thế đối đầu quân-sự được bổ-sung thêm bằng thế đấu-tranh chính-trị trực diện với kẻ thù. Vấn-đề này đă vượt lên trên khả-năng và trách-nhiệm của một Tư-Lệnh Quân-Khu, tức Chính-Quyền Vùng, đặc-biệt là tướng Trưởng, viên tướng biên-thùy không có tham-vọng chính-trị nên giới-hạn cái nh́n trong con mắt nhà binh.
Riêng tại Vùng I, vào những tháng cuối-cùng
của Việt-Nam Cộng-Ḥa, trung-b́nh mỗi tháng đă
có hằng chục vụ dân làng bỏ vùng Quốc-Gia vào
rừng núi sống với Việt-Cộng: không c̣n
lẻ-tẻ từng người lâu lâu lén-lút một
lần, mà là cả gia-đ́nh, nhiều gia-đ́nh đồng
loạt, công-khai chuyển-nhượng nhà đất và
thanh-toán tài-sản, ồn-ào chuẩn-bị, và ngang-nhiên
kéo đi, cả giữa ban ngày, trước mắt các cơ-cấu
chính-quyền và đơn-vị quân-lực tại hương-thôn.
*
Trong các buổi họp tại Quân-Khu, các cấp lănh-đạo
không đề-cập ǵ đến các vấn-đề
then-chốt mà tôi đă nêu ra như trên.
Dù phía Việt-Nam có cố giữ kín trong nội-bộ, nhưng chắc ǵ phía Hoa-Kỳ đă không nắm được những điểm khuyết/nhược đó trong sách-lược và thực-lực của Đồng-Minh ḿnh...
LÊ XUÂN NHUẬN