Thân
mến gởi: Anh Nguyễn Phúc Liên Thành
*
Anh
Nguyễn Phúc Liên Thành thân mến,
Tôi
rất cám ơn anh đã kể lại chi-tiết
kế-hoạch hoạt-động của anh và các anh+em khác
tham-gia công-tác vô-hiệu-hóa tên không-tặc tại phi-trường
Phú Bài năm 1974.
Tôi
cũng xin kể lại các chi-tiết liên-quan đến công-tác
của tôi mà tôi chưa ghi đủ trong bài hồi-kí
“Trung-Tá Trần Phước Thành” của tôi.
1.
Mục-đích
chính của anh là bắt sống hoặc nếu cần
thì hạ-sát tên không-tặc.
Đó là một công-tác vô-cùng khó-khăn, nguy-hiểm.
Tôi rất thán-phục anh.
2.
Về
phần tôi (có Thiếu-Tá Ngô Phi Đạm, Chánh Sở Công-Tác
của Ngành Đặc-Biệt Vùng I, cùng đi làm việc
chung với tôi), tôi chỉ đến hiện-trường sau
khi đã biết là vụ nổ đã xảy ra
rồi. Tôi đến đó
với con mắt chiến-lược: sưu-tầm
các nguyên-nhân, ước-tính các hậu-quả (Từ
góc nhìn này, tôi đã can-thiệp với các
giới-chức liên-quan để có nhân-viên CSQG thường-trực
và chủ-trì kiểm-soát hành-khách, hành-lý, và
xe-cộ vào+ra Phi-Trường Đà-Nẵng.
Tôi đã can-thiệp với Tòa Tổng-Lãnh-Sự
Hoa-Kỳ tại Vùng I, và do đó, Tòa Đại-Sứ
Mỹ tại Saigon, để thực-hiện việc rà-soát
khắp người và kiểm-soát hành-lý của
mọi hành-khách sử-dụng phi-cơ “Air America” của
Mỹ bay khắp Việt-Nam Cộng-Hòa; v.v…
– Thí-dụ
1 – Thí-dụ
2
3.
Những viên-chức
thuộc quyền của anh (theo hệ-thống ngang) đã
liên-lạc, tiếp-xúc, hợp-tác với tôi tại
Phi-Trường Phú-Bài hôm ấy là:
Thiếu-Tá Trương Công Ân (Trưởng Ngành Đặc-Biệt
Tỉnh/Thị Thừa-Thiên/Huế) Phụ-Tá Đặc-Biệt
của anh; Thiếu-Úy Hồ Đình Chi (Trưởng Ngành
Đặc-Biệt Quận Hương-Thủy) Phụ-Tá Đặc-Biệt
của Đại-Úy Phạm Bá Nhạc, CHT/CSQG Quận Hương-Thủy.
Ân đến trao các tài-liệu mà tôi cần, rồi
đi ngay; còn Chi thì ở lại giúp tôi nhiều
việc. Ân và Chi đều
là thuộc-cấp của tôi (theo hệ-thống
dọc).
4.
Tôi mặc dân-phục
(quần dài xanh đen, áo sơ-mi trắng cụt tay), trên
ngực áo có gắn bảng nhựa khá lớn màu
lục với dòng chữ màu trắng “TƯ-PHÁP
CẢNH-LẠI” (kèm thêm cấp-hiệu thiếu-tá.)
Ngoài chức-vụ Trưởng E (giám-đốc một
Nha-có-nhiều-Sở) Ngành Đặc-Biệt Vùng I, tôi còn
có tư-cách Phụ-Tá Biện-Lý Tòa Sơ-Thẩm
Thừa-Thiên/Huế, và Phụ-Tá Chưởng-Lý Tòa
Thượng-Thẩm Huế. Tôi
mời phi-trưởng Dương Văn Em cùng viên phi-công phụ,
hai nữ và hai nam tiếp-viên vào ngồi tại phòng
chờ để tôi phỏng-vấn.
(Tôi gọi ô. Em là “ông” hoặc “ông Em”
hoặc “ông Trưởng” (ý nói Phi-Công-Trưởng và/hoặc
Phi-Hành-Đoàn-Trưởng) vì Ô. Dương Văn Em chỉ mang
cấp-hiệu quốc-tế của một phi-công-trưởng
dân-sự (chứ không phải là đại-tá Không-Quân).
5.
Người
tiếp-xúc nhiều lần và lâu nhất với tên không-tặc
là nữ-tiếp-viên Hồng 6 (có lẽ có nhiều cô cùng
tên Hồng nên cô này được gọi là Hồng 6), nên cô
Hồng-6 là người trả lời chính, có một
nam-tiếp-viên ngồi cạnh để giúp cô Hồng-6
trả lời các câu hỏi của tôi. Các
thành-viên khác của phi-hành-đoàn thì ngồi xa hơn
một chút, nhưng sẵn-sàng chờ để xem tôi có
hỏi gì. Tôi
giới-thiệu viên phi-công người Mỹ lái
trực-thăng cho chúng tôi với phi-trưởng Dương Văn Em
để họ chuyện-trò với nhau trong lúc
chờ-đợi.
6.
Về
việc tên không-tặc đòi phi-cơ (tôi không gọi là
máy bay) bay ra phi-trường Đồng-Hới thì tôi không
nghe cô Hồng 6 nói đến hai tiếng Đồng-Hới.
Nếu có thì ghi hai chữ Đồng-Hới
hẳn sẽ ngắn gọn hơn là “đáp xuống sân-bay
Gia Lâm (thuộc Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa,
tức Cộng-Sản Việt-Nam, ở Bắc vĩ-tuyến
17)” dài-dòng mà không có ý-nghĩa gì hay hơn.
7.
Về tên
Nguyễn Cửu Viết, hồi đó ở Vùng II tôi đã
chỉ-thị cho Ngành Đặc-Biệt BCH/CSQG Tuyên-Đức/Đà-Lạt
điều-tra hành-vi chính-trị của gã, qua các địa-phương
mà trong quá-khứ gã đã từng sinh sống, cư-ngụ,
có đường dây liên-lạc với bạn-bè…
Mãi sau không thấy Tuyên-Đức/Đà-Lạt báo-cáo
kết-quả gì mới hơn.
Riêng tại Phú Bài, mãi đến khi xem qua xấp
tài-liệu, ảnh và bản sao thẻ căn-cước
của các nạn-nhân do Thiếu-Tá Trương Công Ân trao cho
tôi, tôi mới thấy tên của tên không-tặc là
Nguyễn Cửu Viết.
8.
Nói tóm
lại là tôi đã nhân-danh Bộ Chỉ-Huy CSQG và Ngành
Đặc-Biệt Vùng I đến tân nơi, làm việc như đã
nói, cho đến khi một chiếc phi-cơ Air Vietnam khác được
Hãng phái ra, có Trung-Tá Phạm Văn Ca (Giám-Đốc Nha
Nội-Chính & Phản Tình-Báo thuộc Ngành Đặc-Biệt
trung-ương tại BTL/CSQG) từ trên đó xuống, vào
gặp tôi; tôi tóm-tắt sự-việc, và trao cho ông
một số ảnh về hiện-trường; xong tôi xác-nhận
là đã kết-thúc cuộc phỏng-vấn, để
phi-trưởng Dương Văn Em và các nam+nữ thành-viên phi-hành-đoàn
của ông đáp chiếc phi-cơ mới đến (cùng với
Trung-Tá Phạm Văn Ca) trở về Sài-Gòn; rồi
Đạm cùng tôi cũng lên trực-thăng Air America trở vào
Đà-Nẵng; trước khi trời tối.
9.
Vụ không-tặc
Nguyễn Cửu Viết xảy ra vào chiều ngày
Thứ Tư 20-2-1974 (chứ không phải là ngày Thứ
Bảy 20-4-1974).
*
Vậy
tôi hồi-âm để anh được tường.
Xin
bảo trọng.
Lê
Xuân Nhuận
·
Ủy Ban
Truy Tố Đảng Cộng Sản Việt Nam <ubtttadcsvn68@gmail.com>
To:nngoc1937@gmail.com,Anthony
Nguyen,Anh Dang,Liem
Bui,Trinh V Nguyenand 124 more...
Unsubscribe
Tue,
May 5 at 7:01 PM
Nam
California. USA
Ngày
3 tháng 5/2020
Nguyễn
Phúc Liên Thành
Thân
mến gởi: Anh Lê Xuân Nhuận.
Về
Việc: Một số sĩ quan và hạ sĩ quan
thuộc Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Thừa
Thiên yêu cầu tôi lên tiếng để
TRẢ
LẠI SỰ THẬT CHO VỤ KHÔNG TẶC VÀO CHIỀU
THỨ BẢY, NGÀY
20 THÁNG 4 NĂM 1974
TẠI PHI TRƯỜNG PHÚ BÀI,
HUẾ,
Khi
họ đọc bài: “TRUNG
TÁ TRẦN PHƯỚC THÀNH”
do Anh Lê
Xuân Nhuận đăng trên
diễn đàn điện tử ngày 1/5/2020 hồi 12:40
chiều
Nhưng
trước khi đi vào câu chuyện, tôi xin gởi lời thăm
anh Nhuận cùng
gia quyến có được sức khỏe và sự bình
yên trong thời gian đại dịch Covid-19 đang làm cả
thế giới kinh hoàng.
Anh
Lê Xuân Nhuận thân mến,
Khi
đọc bài viết của anh về vụ không tặc
tại phi trường Phú Bài,
tôi rất ngạc
nhiên vì nhiều sự
kiện anh nêu ra đã không đúng với những gì
đã xẩy ra tại hiện trường.
Tôi
xin thưa với anh sự việc đã xẩy ra như sau:
Vào chiều
thứ Bảy,
ngày 20 tháng 4 năm 1974 Đúng
ra là ngày Thứ Tư 20 tháng 2 năm 1974
chứng
nhân và tác nhân
vụ không tặc tại phi trường Phú Bài là
những người chỉ huy và chịu trách nhiệm an
ninh tại Thừa Thiên Huế sau đây:
1/
Thiếu tá Liên Thành, Chỉ huy Trưởng Bộ Chỉ
huy Cảnh sát Quốc gia Thừa Thiên-Huế;
2/
Thiếu tá Nguyễn Văn Ngôn, Chỉ huy Phó Bộ Chỉ
huy Cảnh sát Quốc gia Thừa Thiên-Huế (hiện đang
cư trú tại South Dakota, USA);
3/
Thiếu tá Trương Công Ân, Phụ tá ngành Cảnh sát Đặc
biệt Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Thừa
Thiên Huế (đã mất tại Nam California ngày
14/10/2017);
4/
Đại úy Trần Văn Tý, Đại đội trưởng
Đại đội 102, Cảnh sát Dã chiến thuộc
Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Thừa Thiên
(hiện đang cư trú tại thành phố San Diego, California, USA];
5/
Đại úy Bác sĩ Chung Châu Hồ, Đại
đội Phó Đại đội 102, Cảnh sát Dã
chiến, Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Thừa
Thiên-Huế (đã mất tại Việt Nam);
5/
Ba (3) Trung đội Cảnh sát Dã chiến gồm
khoảng hơn 120 người tham
dự nội vụ nói trên (một số hiện đang
ở rải rác tại California và các Tiểu Bang khác
của Hoa Kỳ]
6/
Đại úy Phạm Bá Nhạc, Chỉ huy Trưởng Bộ
Chỉ huy Cảnh sát Quận Hương Thủy (hiện cư trú
tại San Diego, USA];
7/
Thiếu úy Hồ Đình Chi, Phụ tá ngành Đặc
biệt Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Quận Hương
Thủy (đã mất tại Louisiana).
Vào
khoảng quá trưa ngày
thứ Bảy, ngày 20 tháng 4 năm 1974, tôi
đang ngồi làm việc thì chuông điện thoại
trong phòng reng lên. Tôi nhấc máy thì đầu dây
bên kia:
-Trung
tá Tạo đây, Liên Thành. Em giữ
máy nhận lệnh khẩn cấp của Thiếu tướng
Tư lệnh. [Trung Tá Tạo là Chánh văn phòng của
Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh
Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa).
Tôi
chưa kịp trả lời Trung tá Tạo thì đã
nghe tiếng của Thiếu tướng Tư lệnh.
-Thiếu
Tướng Bình đây Liên Thành, mình
bị không tặc.
Một
phi cơ Air Việt Nam rời Phi trường Liên Khương Đà
Lạt, bay từ Đà Lạt và đáp xuống Quy Nhơn,
rồi từ Quy Nhơn bay ra Phi trường Đà Nẵng là điểm
đến cuối cùng. Nhưng khi máy bay rời Quy Nhơn
Khoảng 15 phút thì có
một thanh niên khoảng 21 tuổi, đưa một mảnh
giấy nhỏ cho phi hành đoàn. Trên mảnh giấy có hàng
chữ: “Yêu cầu cho máy bay bay ra Phi trường Đồng
Hới, nếu không sẽ cho nổ máy bay”. Dưới
mảnh giấy nhỏ nó ghi tên là Nguyễn Cửu
Viết. Trong lúc đó, tay nó cầm 1 trái lưu đạn M-26
[loại mini].
Phi
công trưởng chiếc máy
bay Air
Việt Nam nầy là Đại
Tá?
Dương Văn Em. Đại
Tá Em đã liên lạc với cục Hàng Không Air
Việt Nam để xin lệnh.
Cục
Hàng Không Air Việt Nam đã liên lạc với
Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình và Thiếu tướng
đã yêu cầu họ -- bằng mọi giá —
phải đáp chuyến bay đó xuống Phi trường Phú Bài,
Huế. Tại Phi Trường Phú Bài, Huế sẽ có
lực Cảnh sát của Bộ Chỉ huy Cảnh sát
Quốc gia Thừa Thiên-Huế giải quyết. Thiếu
tướng yêu cầu Đại Tá
Em liên lạc với Thiếu tá Liên Thành, Chỉ huy trưởng
Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Thừa Thiên qua
hệ thống kiểm soát không lưu của Phi Trường
Phú Bài, Huế, để cùng phối hợp hành động.
-Liên
Thành, đây là lệnh của Thiếu Tướng:
"Phải bắt sống tên đó, tránh thiệt hại
cho hành khách và phi hành đoàn. Em và Trung tâm hành quân
Cảnh lực Bộ Chỉ huy Cảnh sát Thừa Thiên-Huế
phải báo cáo từng chi tiết của mỗi hành động
về cho Thiếu tướng ngay.”
Tôi
trả lời Thiếu tướng Tư lệnh:
-Em nhận
rõ lệnh Thiếu Tướng 5/5. Em là
người sẽ chỉ huy một toán Đặc biệt đột
nhập lên phi cơ, và xin phép Thiếu Tướng trong trường
hợp không thể bắt sống được nó, em buộc
lòng phải nổ súng hạ sát tên nầy.
Thiếu
tướng Tư lệnh:
-Em
toàn quyền, tùy theo tình huống mà giải
quyết. Điều quan trọng là phải bảo vệ
tối đa sinh mạng của hành khách và phi hành đoàn.
Liên
Thành:
-Nhận
rõ và thi hành.
Cuộc
điện đàm giữa tôi và Thiếu tướng Tư lệnh
chấm dứt.
Ngay
lập tức tôi bấm máy gọi Đại úy Trần Văn
Trinh, Trung tâm trưởng Trung tâm Hành quân Cảnh lực (Đại
Úy Trinh và gia đình hiện đang định cư tại
Seattle, Tiểu bang Washington, USA), bảo Trinh gọi
Thiếu tá Ngôn Chỉ huy phó; Thiếu tá Ân, Phụ tá
ngành Đặc biệt; Đại úy Trần Văn Tý, Đại
đội trưởng, Đại Đội 102 Cảnh sát Dã
chiến; yêu cầu họ mười lăm (15) phút sau có
mặt tại Phòng họp Trung tâm Hành quân Cảnh
lực để họp khẩn cấp. Tôi cũng không quên
dặn Đại úy Trinh yêu cầu Thiếu Tá Ân gọi viên
Cố vấn Cảnh sát Đặc biệt Bob Bellars [CIA] đến
họp, và Đại úy Trần Văn Tý gọi Viên
Cố vấn cho Đại đội Cảnh sát Dã
chiến Vukovid (Tôi không nhớ họ của anh ta), thượng
sĩ của Lực lượng Đặc biệt Mỹ làm
Cố vấn cho Đại đội Cảnh sát Dã
chiến của Đại Úy Trần Văn Tý.
Chỉ
khoảng 20 phút sau phiên họp bắt đầu. Trinh làm thư
ký ngồi viết biên bản buổi họp. Tôi trình
bày chỉ thị của Thiếu tướng Tư lệnh và
sau đó để anh em và cố vấn Mỹ góp ý
kiến. Nhưng trước tiên phải sưu tra xem tên nầy có
nằm trong danh sách đen của phòng Cảnh sát Đặc
biệt, và trong danh sách hạ tầng cơ sở của
Ủy ban Phượng hoàng tỉnh hay không. Rất may là
sau chưa đầy
15 phút, Thiếu tá Ân và Đại úy Trinh đều cho
biết tên Nguyễn
Cửu Viết, người Huế, là
tên Việt cộng nằm vùng thuộc
địa hạt Lăng Xã
Bầu, quận
Hương
Thủy. Mậu Thân 1968 hắn với du kích xã đã
giết một số cán bộ xã ấp và đồng
bào
vô tội. Sau Mậu Thân
1968 hắn bị lực lượng Đặc biệt và
Ủy ban Phượng Hoàng tỉnh truy nã gắt gao nên
đã trốn lên Đà Lạt.
Sao
không truy bắt? Không
lẽ VC chạy từ địa-phương này đến trốn
ở địa-phương khác là thoát tội?
Trở
lại vấn đề làm thế nào để hành động
theo lệnh của Thiếu tướng Tư lệnh. Chúng tôi
cả Việt lẫn Mỹ đều lắc đầu vì
vấn đề quá khó.
1/
Cái khó thứ nhất là làm thế nào cho nó tin là báy
bay đã đáp xuống phi trường Đồng Hới.
2/
Cái khó thứ hai là làm sao đột nhập lên phi cơ để
hoặc bắt sống hoặc nổ súng hạ sát nó, vì
nó đang cầm trên tay trái lựu đạn M-26. Nếu
nó cho nổ lựu đạn thì số thiệt
hại nhân mạng hành khách và phi hành đoàn sẽ
rất lớn.
Mỗi
người mỗi ý. Tôi là người phải nhanh chóng
đưa ra quyết định cuối cùng để còn
phải chạy xuống Phi trường Phú Bài vì không
còn nhiều thì giờ.
Để
giải quyết vấn nạn thứ nhất,
a/
Tôi đề nghị ngụy trang phi trường
Phú Bài
thành phi trường Đồng Hới bằng cách hạ
cờ VNCH xuống
và treo cờ đỏ sao vàng
lên trên chóp toà cao ốc của phi trường;
b/ Cho
6 Cảnh sát Dã chiến nguỵ trang thành bộ đội
chính quy Bắc Việt với nón cối, dép râu, và súng
AK-47. Sáu nhân viên nầy đi qua đi lại tuần hành phía
mặt toà cao ốc, phía mà phi cơ sẽ đậu.
Bob
Bellars Cố vấn Đặc biệt hỏi tôi:
-Chief
Thanh, mấy thứ đó mình làm sao có được.
Tôi
trả trả lời:
-Ông
đừng lo, mấy món đồ chơi nầy chúng tôi có
sẵn. Thiếu tá Ân lấy trong kho, giao cho Đại úy Tý.
Vấn
nạn thứ hai:
Phân
công trách nhiệm và hành động.
a/
Đích thân tôi chỉ huy 6 nhân viên và Đại úy Tý đột
nhập phi cơ. Tùy hoàn
cảnh, nếu
bắt sống được thì quá tốt, còn
bằng không phải bắn hạ nó, và tôi sẽ là người
nổ súng đầu tiên.
b/
Tôi,Tý và 6 nhân viên phải mặc đồ phường
phục để khi đột nhập vào được phi cơ
sẽ lẫn lộn vào đám hành khách thì nó sẽ
không phát hiện.Chúng tôi sẽ dùng súng lục (súng
ngắn) chứ không dùng súng dài M-16.
c/
Tôi sẽ liên lạc để bàn việc nầy với Đại
Tá Em, phi công trưởng, là cứ bình tĩnh đáp
xuống, cho phi cơ chạy vào chỗ đậu thường ngày,
và mở cửa bên
hông máy bay cho chúng tôi đột nhập lên phi
cơ.
d/
Ngoài ra tôi còn giao trách nhiệm cho Thượng sĩ
Vokovic dùng súng bắn tỉa, có máy nhắm, lên nằm
trên sân thượng của cao ốc, cùng với một sĩ
quan Cảnh sát Đặc biệt, nhìn qua cửa sổ
máy bay, sẵn sàng bắn hạ tên Viết, khi nhận dược
ám hiệu của tôi.
e/
Ân, Ngôn, chỉ huy 20 nhân viên cảnh sát Đặc biệt
cùng với Hồ Đình Chi, sẵn sàng theo
mật hiệu, đưa số hành khách rời khỏi phi cơ
càng nhanh càng tốt, và cố vấn Đặc Biệt
Bob Bellars cùng đi với Ân.
f/
Đại úy Bác sĩ Chung Châu Hồ, Đại đội phó,
Cảnh sát Dã chiến, cho 3 trung đội mời
tất cả xe hơi, xe gắn máy, dân sự cũng như quân
đội phải rời khỏi phi trường ngay để
ngụy trang thành phi trường Đồng Hới vắng
vẻ, sau đó bố trí lực
lượng quanh cao ốc, đợi
lệnh.
g/
Thiếu tá Ân cho 1 xe chở bác Trần Văn Nghị, Giám
đốc Hàng không Việt Nam tại Huế về
thẳng Phú Bài để nhờ bác một tay trong việc
điểu hành các máy bay dân sự cũng như quân sự
nếu có, rời khỏi Phi trường ngay.
Về
đến Phi Trường Phú Bài,
tôi dặn Ân nhớ gọi Đại Úy Phạm Bá
Nhạc và Thiếu Úy Hồ Đình Chi về gặp
nhau tại phi trường. Sao
không báo tin cho họ biết ngay, mà phải đợi đến
khi về thấu Phú Bài rồi mới gọi họ?
Mọi
người đều đồng ý kế hoạch của tôi,
và 15 phút sau một đoàn xe khá dài trực chỉ Phi Trường
Phú Bài.
Khoản
hơn 20 phút sau, chúng tôi đã có mặt tại Phi trường.
Trung úy Cảnh sát Nguyễn Văn Chính, Trưởng ban An
ninh Phi Trường và Trung Úy Cảnh sát Trần An Bằng,
Phó trưởng ban an ninh đã đứng ngay của chính vào
phòng hành khách đợi
chúng tôi.
Trung
Úy Chính nói ngay:
-Thiếu
Tá, mình lên ngay đài kiểm soát không
lưu. Phi công trưởng đang đợi
Thiếu tá trên hệ thống truyền tin.Tất cả
anh em sĩ quan và hai viên Cố vấn Mỹ cùng tôi chạy
lên đài kiểm soát không lưu.
Tôi vừa
chạy vừa
hỏi Trung Úy Chính:
-Còn
mấy tiếng nữa thì máy bay vào không phận Phú
Bài.
-Khoảng
2 tiến rưỡi nữa, Thiếu Tá.
Tôi
nói với Chính:
-Dư
sức qua cầu.
Tôi
dùng bạch văn nói chuyện với Đại Tá Em, phi công
trưởng:
-Đại
tá, Tôi là Liên Thành, chỉ huy trưởng Cảnh sát
Quốc gia Thừa Thiên-Huế. Tôi nhận lệnh
của Thiếu Tướng Nguyễn Khác Bình, Tư
lệnh Cảnh sát Quốc gia liên lạc với Đại
tá để phối hợp hành động. Theo chỉ thị
của Thiếu tướng Bình là bắt sống tên
nầy, vạn bất đắc dĩ thì chúng tôi
mới nổ súng.
Đai
tá Em cũng cho tôi biết ông cũng đã nhận được
lệnh cũa Tổng cục Hàng không Việt Nam liên
lạc và phối hợp công tác với tôi.
Đại Tá Em cho biết:
-Từ Quy
Nhơn sau khi bay khoảng hơn 15
phút thì một
thanh niên khoảng 21 tuổi nói giọng Huế đưa
một miếng giấy nhỏ cho một nữ tiếp
viên, nội dung “Yêu cầu đưa nó ra Phi Trường Đồng
Hới, bằng không nó sẽ cho nổ máy bay” dưới
cùng nó đề tên là Nguyễn Cửu Viết. Trên tay
nó có cầm 1 trái lưu đạn M-26 loại mini nhưng chưa
rút chốt an toàn.
Nó
nhỏ con, mà không sợ hai nam-tiếp-viên (cùng hành-khách
quanh nó khi biết chuyện) có thể “bề hội-đồng”/giựt/đá
văng quả lựu-đạn ra khỏi tay nó hay sao mà nó
vẫn chưa rút chốt an-toàn?
Ông
còn cho tôi biết nó ngồi ở
vị trí bên phải hay bên trái của máy bay và hàng
ghế số mấy.
Lời
yêu cầu của Đại Tá Em:
-Tình
hình rất nguy, anh Liên Thành ạ, nếu nó tung
trái lựu đạn
Phải
rút chốt an-toàn trước đã
thì
nhiều sinh mạng của hành khách và phi hành đoàn
sẽ phải hy sinh. Anh phải cố gắng giúp chúng tôi
và hành khách.
Tôi
trình bày kế hoạch mà anh em chúng tôi đã
họp ở Bộ Chỉ Huy và hỏi ông có ý
kiến gì không, thì Đại Tá Em trả lời:
-Không,
như vậy là quá tốt.
Tôi
yêu cầu đại Em:
-Để
cho chúng tôi hành động, xin Đại Tá:
1/ Trước
khi đáp, Đại
Tá cho các tiếp viên chuyện trò gần tên không
tặc để
dánh lừa
nó là Phi cơ sắp dáp xuống phi trường
Đồng Hới.
2/
Làm cách nào cho nó có thể thấy cờ đỏ sao vàng
treo trên nóc cao ốc.
3/
Cho nó thấy bộ đội cộng sản đang
tuần hành gần
cao ốc.
4/
Quan trọng nhất là Đại
tá cần cho máy bay đậu
sát cao
ốc chính và đã
đậu
vào vị trí, xin
mở ngay cửa bên hông máy
bay, tôi và 6 anh em sẽ từ đuôi máy bay chạy nương
theo thân
máy bay và sẽ đột nhập vào máy bay ngay cửa
bên hông. Phần còn
lại chúng tôi sẽ tuy cơ ứng biến.
Đai
Tá Em trả
lời:
-Tôi
nhận rõ.
Và
ông cũng còn cho tôi biết khoảng 1:35 phút
nữa, ông mới vào không phận Phú Bài.
-Xin
Đại Tá giữ liên lạc cho đến khi phi cơ hạ cánh.
Cả ông
và tôi cùng chúc nhau may mắn. Và tôi
chấm dứt cuộc điện đàm.
Sau
đó tôi nói với anh em chúng ta có 60 phút để
bố trí, và ngụy trang
biến phi trường Phú Bài thành phi trường Đồng
Hới.Thế nhưng chỉ
45 phút sau là mọi việc đã hoàn tất. Trụ
cờ ở
cao ốc chính của phi trường
đã có lá cờ máu, nền đỏ sao vàng phất
phới trong gió. Nhìn xuống ngoài sân lầu 1
của cao ốc chính, 6 tên bộ đội nón cối, dép
râu mang súng Ak đi tới đi lui tuần tiễu.
“Phi
trường Đồng Hới” nguỵ trang chiều thứ
Bảy, ngày 20 tháng 4 năm 1974 vắng
hoe, âm u, căng thẳng, như chiều mồng một Tết
năm 1968 tại Huế Chiều
mồng một tết Mậu-Thân tại Huế đồng-bào
ngoài đó vẫn thoải-mái tưng-bừng ăn Tết (mãi
đến khuya mồng một rạng mồng hai VC mới
tấn-công cơ mà!)
mà
tôi đã trãi qua. Liếc nhìn qua Đại úy
Trần Văn Tý và 6 anh em đứng quanh Tý đang
chuyện trò với nhau, những người nầy
chốc nữa đây sẽ cùng tôi xông lên máy bay thi hành
nhiệm vụ của người Cảnh sát Quốc gia để
bảo vệ sinh mạng cho đồng bào. Rồi ra 7
anh em chúng tôi ai còn, ai mất, nào ai biết được.
Chút gió chiều vào cuối tháng Tư thoảng qua, tôi quay
mặt đi nhìn về hướng phi cơ sẽ xuất
hiện mà có chút xao xuyến trong lòng… Cuộc
chiến kéo dài trên quê hương Miền Nam đã quá lâu,
anh em, bạn hữu, kẻ đã đi khuất, người
còn ở lại. Gánh nặng của đồng bào
lầm tham, tổ quốc điêu linh, vẫn tháng…năm… đè
nặng lên vai chúng tôi…
Bỗng
Trung Úy Chính gọi to:
-Thiếu
tá! Phi Công trưởng muốn nói chuyện với
Thiếu tá.
Tôi
chạy lên đài kiểm soát không lưu, viên Cố vấn
cho tôi cũng chạy theo.
-Tôi
nghe đây, Đại Tá
-
Anh xong chưa? Khoảng 10 phút nữa tôi vào không phận Phú
Bài.
-Tôi
đã xong, sẵn sàng. Nhắc lại Đại tá
nhớ đậu phi cơ gần sát cửa vào cao ốc cho chúng
tôi dễ hành động.
-Nhớ
mở cửa bên hông phi cơ, chúng tôi sẽ từ phía sau
đuôi phi cơ để nhảy lên.
Đại
Tá Em:
-Nhận
rõ. Chúc may mắn.
Tôi
gác ống liên hợp xuống máy. Xoay qua viên cố
vấn, tôi nói:
-10
phút nữa.
Viên
Cố vấn trông thật tội nghiệp, chạy theo tôi
xuống lầu, vừa chạy vừa nói:
-Chief
Thành! Cẩn thận!
Tôi
đưa hai bàn tay lên cao, anh em đều hiểu là 10 phút
nữa, máy bay đến. Mọi người đều vào
vị trí, im lặng chờ đợi…
Tôi
đứng trước, Tý và 6 anh em tiếp theo sau… Chúng
tôi ở vị trí dấu quân chờ đợi… Mười
phút mà sao lâu quá...
Bỗng
một chấm đen xuất hiện ở không phận Đầm
Thủy Tú, hướng 12 giờ. Chấm đen lớn
dần…Đó là chiếc máy bay Douglas C54A (DC-4) của
hảng Hàng không Air Việt Nam. Phi
hành đoàn 2 người
2
người này là phi-công chinh và phi-công phụ - cộng
với 4 tiếp-viên mới gọi chung là phi-hảnh-đoàn, 4
tiếp viên Hàng không. Tối đa là 46 hành khách.
DC-4
đáp xuống phi đạo, chạy nhanh, rồi chậm
lại, quay đầu chạy vào phía cao ốc chính của
phi trường.
Phi
cơ đã ngừng hẳn, tắt máy, đậu đúng
vị trí. Cánh cửa bên hông đã mở, tôi phóng
ra khỏi vị trí, Tý và 6 anh em chạy theo, nương
theo từ đuôi máy bay chạy đến cửa bên hông
của máy bay. Chúng tôi đã vào lọt trong máy bay,
ở phần cuối đuôi máy bay.
Nhưng…
đời không ai biết đựơc chữ ngờ…
Trong
buồng lái, hai cánh của nhỏ hai bên đã mở.
Đại Tá Em và viên phi công phụ đã quá hoảng
sợ nên cả hai đã phóng ra khỏi phi cơ nhảy
xuống đất cắm dầu chạy vào cao ốc,
bỏ lại phi cơ, hành khách và tiếp viên.
Trong
cơn hỗn loạn, tên không tặc biết mình đã
bị lừa bèn rút chốt lựu đạn tự sát.
Một
tiếng nổ ầm thật lớn, xác tên không tặc
văng lên trần phi cơ, kế tiếp là 2 hành khách ngã
gục. Nói thì lâu nhưng sự việc xẩy ra
quá nhanh làm chúng tôi không tài nào trở tay kịp.
Kết
quả:
1/
Tên không tặc chết tại chỗ.
2/
Hai hành khách khác bị sức ép và mãnh lựu đạn
chết tại chỗ. Họ là hai Hạ sĩ quan
Cảnh sát Quốc gia vừa thụ huấn khóa huấn
luyện Cảnh sát Dã chiến tại trung tâm
Huấn luyện Cảnh sát Đà lạt mới mãn khóa
trở về.
3/
Trần máy bay bị một lỗ thủng khoảng 2x3
m.
Tôi
rời phi cơ báo cáo mọi sự việc xẩy ra
với Thiếu tướng Tư lệnh.
Mười
lăm (15) phút sau Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư
lệnh Quân đoàn I và Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư
lệnh Tiền phương, Quân đoàn I đều có mặt
tại hiện trường.
Tôi
Trình bày đầy đủ mọi diễn tiến
với Tướng Ngô Quang Trưởng và Tướng Lâm Quang
Thi.Kế tiếp là Đại Tá Tôn Thất Khiên cũng có
mặt tai hiện trường và cũng là lần thứ tư
(4) tôi trình bày sự việc xẩy ra, lần
này với Đại Tá Tỉnh
trưởng.
Viên
Cố vấn Tình báo CIA cùng với chiếc máy
truyền tin xách tay cũng đã phúc trình theo
hệ thống của ông ta.
Đại
Tá Lộc, Chỉ huy trưởng CSQG vùng I cũng như các
viên chức phụ tá ngành Đặc biệt Vùng I đều
không có mặt tai hiện trường chiều hôm đó.
Chúng
tôi làm việc tại hiện trường cho đến
khi xong việc thì trời đã tối từ lâu
Anh
Đạm và minh đã lên trực-thăng rời Phú Bài lúc
trời gần tối, sao anh LT vẫn còn ở đó
cho đến lúc trời đã tối từ lâu?
Chiếc
máy bay đã dược bác Nghị, Giám đốc Air
Việt Nam tại Huế, cho kéo đậu sát bờ rào
của cao ốc chính.
Thưa
Anh Lê Xuân Nhuận,
Vì
một số anh em là chứng nhân và tác
nhân của sự kiện yêu
cầu tôi lên tiếng về vụ nầy để
phản ánh đúng sự thật vì vậy tôi phải
viết lại chi tiết nội vụ.
Anh
đã viết sai hai điều quan trọng trong vụ
nầy:
1/
Không tặc đòi bay ra phi trường Đồng Hới
chứ không phải — như anh nói -- là nó đòi
bay ra Phi trường Gia Lâm, Hà Nội.
Các
người khác nhắc đến Đồng Hới là từ
phi-công-trưởng Dương Văn Em nói ra; Ô. Em có nghe cô
Hồng nói như thế hay không thì không biết; nhưng
minh không nghe cô Hồng nói đến Đồng Hới.
2/
Không tặc là tên Việt cộng đã từng cùng
với du kích địa phương giết hại rất
nhiều cán bộ xã và đồng bào vô tội
tại Lăng Xá Bầu, Quận Hương Thủy trong dịp
Mậu Thân 1968, và đã bị Cảnh sát Đặc
biệt và Ủy ban Phượng hoàng Thừa Thiên truy nã
nên đã chạy trốn trên Đà Lạt.Chứ không
phải như anh nói nó không phải là Việt cộng, còn
trẻ, được cha mẹ gởi vào Đà Lạt học
nghề thợ mộc.
Mình
không nhận được tin gì về tội ác của
Nguyễn Cửu Viết hồi Tết Mậu-Thân ở
Huế. Không lẽ Tuyên-Đức/Đà-Lạt
đã không hỏi Thừa-Thiên/Huế; mà cũng không
lẽ Thừa-Thiên/Huế (khi được Tuyên-Đức/Đà-Lạt
hỏi về Nguyễn Cửu Viết) lại không
cung-cấp tài-liệu hoặc đòi (hoặc phái nhân-viên
vào) áp-giải y-can ra Huế?
Điều
1 và 2 mà tôi nêu trên quả thật là hai sai lầm
lớn mà anh đã vấp phải. Mong rằng từ
nay khi viết lách anh nên cẩn trọng, vì nếu
tự sáng tác không đúng sự thật thì, thứ
nhất, anh sẽ mang tiếng xấu và, thứ hai, quan
trọng hơn nhiều, là con cháu sau này sẽ mắc
phải lỗi lầm trầm trọng khi nghiên cứu
lịch sử của đất nước
vì những sai lầm sử liệu của anh.
Tạm
xếp.
Đợi
có dịp gặp mình
sẽ nói chuyện riêng với anh Liên Thành.
Xin
bảo trọng,
Nguyễn
Phúc Liên Thành