ÔNG ÐỒN LỢI
TÔI nói với Đại-Úy (sau này là Thiếu-Tá) Trương
Công Ân, Chánh Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh+Thị
Thừa-Thiên+Huế, rằng anh khỏi cần tháp-tùng hoặc cử nhân-viên đi theo
tôi. Tôi chỉ đi dạo chơi trên Đại-Lộ Trần Hưng Ðạo và quanh
Chợ Ðông-Ba, để xem lại những nơi chốn cũ
vốn đã ghi sâu trong tôi nhiều kỷ-niệm khôn quên trước ngày tôi bị đày đi khỏi
Huế vào năm 1960.
Sau đó, cùng với Đại-Úy (sau này là Thiếu-Tá) Ngô
Phi Đạm, Chánh Sở Tác-Vụ thuộc Ngành Đặc-Biệt Vùng I, ngồi trong chiếc xe
Jeep sơn màu trắng-xám và mang bảng số ẩn-tế đậu dọc lề đường, tôi dùng máy
vô-tuyến chỉ-huy công-tác của Đại-Úy Nguyễn Công
Văn, Phó Sở Tác-Vụ, và Toán Ðặc-Nhiệm Vùng I, mà tôi đã phái đi riêng từ
Ðà-Nẵng ra, đang kín-đáo làm việc ở bên kia
Bờ Sông Gia-Hội và ở mé sau Chợ Ðông-Ba.
Vì các đối-tượng theo-dõi của chúng tôi có những liên-hệ mật-thiết với một số
viên-chức hữu-trách ở đây, tôi không tiện giao cho địa-phương thi-hành nên phải
đích-thân từ Ðà-Nẵng ra tận nơi hành-động
với nhân-viên riêng của mình.
*
Dù là dân Huế hay là người ở xa mà đã có lần
đến Huế, chắc là không ai không biết đến Đường
Trần-Hưng-Ðạo và Chợ Ðông-Ba, nổi bật
giữa trung-tâm thương-mại và kỹ-nghệ của cố-đô này.
Ðối với tôi, bây giờ cảnh-vật ở đây kém phần thân thương, vì bây giờ ở đây không
còn có nữa một khuôn mặt quen thuộc, quen thuộc như người nhà của mọi người, mọi
nhà, nhất là ở khu phố này, lần cuối cách đây chừng trên mươi năm.
Ðó là “ông Ðồn Lợi”.
*
Tháng 3 năm 1947, Đế-Quốc
Pháp đem binh-lính viễn-chinh đến dẫm gót
giày đinh xâm-lược lên đất Thần-Kinh, trong âm-mưu tái-chiếm cựu thuộc-địa
Việt-Nam mà chúng đã khởi đầu tại
Sài-Gòn từ tháng 9 năm
1945. Thực-dân đánh đuổi về đồng quê và lên rừng
núi lực-lượng kháng-chiến mà Ðảng Cộng-Sản Việt-Nam đã cướp được quyền lãnh-đạo
dưới lốt Mặt Trận Việt-Minh. Pháp
dựng lên bộ máy kềm kẹp tại những thành+thị và khu-vực mà chúng đã chiếm-đóng
được, thí-dụ: Sở Liêm-Phóng Liên-Bang (Sûreté
Fédérale), Ty Cảnh-Sát Pháp (Police
Française), Toà Án Pháp (Tribunal Français),
Lao-Xá Trung-Ương (Prison Centrale), v.v...
Các nhà ái-quốc không-Cộng-Sản bèn đứng ra thành-lập
Chính-Quyền Quốc-Gia. Một mặt, họ đương-đầu
với Mặt Trận Việt-Minh; một mặt, họ vừa
hợp-tác với bạn đồng-minh để bình-định xứ-sở, vừa tranh-đấu với thù cố-cựu để
giành lại chủ-quyền cho quốc-dân. Trong tình-hình đó, tại
Miền Trung,
Hội-Ðồng Chấp-Chánh Lâm-Thời Trung-Kỳ, mà trụ-sở được đặt tại
Huế, đã tổ-chức các công-sở: ở cấp Phần thì
có Nha An-Ninh Quốc-Gia, v.v...; ở cấp Tỉnh thì có Toà Hành-Chánh với các Ty, tỷ
như Ty An-Ninh Quốc-Gia, Ty Cảnh-Sát Quốc-Gia, v.v... là những cơ-quan song-hành
nhưng tranh-chấp với các bộ-phận tay-sai kể trên của ngoại-bang.
Huế
là trung-tâm của toàn-quốc, đồng-thời là thủ-phủ cuả
Miền Trung, cho nên khu phố cốt-lõi của
Huế là nơi đầu tiên đón nhận sự hiện-diện
của Chính-Quyền Quốc-Gia. Ðó là
Ðồn Cảnh-Sát Ðông-Ba, nằm ngay đầu Đường
Trần-Hưng-Ðạo và sát hông ngôi chợ mà Ðồn này mang tên.
Ðặng Hữu Lợi
là viên Trưởng Ðồn đầu tiên ở đây.
Lợi có một bộ mặt dài thòng như mặt ngựa, với cái vẻ tỉnh bơ như không nói gì mà
lại nói rất nhiều, sâu-sắc và chua-cay, khiến nhiều người so sánh anh với vai hề
nổi tiếng cuả màn-ảnh Pháp,
Fernandel, mặc dù gã diễn-viên của nước
ngoài thì cao to ngược hẳn với ông cò thấp
gầy của nước mình. Nhưng, xen kẽ với phim-ảnh Pháp
thì cũng có nhiều phim-ảnh Mỹ được chiếu
thời bấy giờ, nên đã có không ít người cãi lại, bảo rằng trông
Lợi giống thằng
gầy trong cặp mập+gầy Laurel và
Hardy của
Hoa-Kỳ. Ðó là những lúc Lợi pha trò,
nhộn và tếu vô cùng.
Lợi
có một đặc-điểm khác nữa, là anh thường hay chồm nửa người trên về phiá cửa lớn
cũng như cửa sổ, nghiêng đầu và hướng mắt ra xa, dù cho đang bàn-luận chuyện gì
với ai, tạo cho người xung quanh cái cảm-tưởng là anh luôn luôn ngóng đợi một
người nào. Vì là Trưởng Ðồn nên anh được gọi là “ông
Ðồn”, và vì tên Lợi mà lại có dáng-bộ
chờ-đợi nên bạn-bè tinh-nghịch đặt cho anh cái biệt-danh “ông
Ðồn... Lợi”, với cái hàm-ý theo lối nói lái là “ông đợi... l...”. Chính
anh cũng lấy làm thích-thú được mọi người dùng cái tên ấy để gọi mình.
Sau khi có Chính-Quyền Quốc-Gia, những người
dân Huế, vốn đã bỏ chạy về miền nông-thôn
lánh nạn sau đêm lịch-sử 19 tháng 12 năm 1946―quân
và dân Việt-Nam bất-thần tấn-công các
đồn/trại và tư-gia cuả Pháp để khởi đầu cuộc
kháng-chiến toàn-quốc―nay
lũ-lượt hồi-cư. Một số dân quê cũng rời ruộng đồng lên phố sinh sống để tránh
tai-họa vì các cuộc giao-chiến ngày càng lan ra. Tuy thế, hàng ngày dân-chúng
vẫn di-chuyển tấp-nập giữa Thành-Phố này với các Tỉnh khác và các Quận+Xã xung
quanh; và bến xe chính cũng như bến đò chính thì ở sát chợ, cạnh Ðồn, nên “ông
Ðồn Lợi” được hầu hết bà con khắp nơi trong Tỉnh và các Tỉnh khác quen
mặt hoặc biết tên, trong lúc các Đồn-Trưởng Ðồn khác chỉ được nghe thấy trong
Phường mình mà thôi.
Lợi
nổi tiếng không phải chỉ do cái dáng-mạo buồn-cười ấy, mà còn nhờ ở thiện-chí
bênh-vực bảo-vệ đồng-bào hiền-lương.
Nào là Sûreté Fédérale (Mật-Thám Pháp), nào
là Commando (Biệt-Kích Pháp), nào là
Partisan (thân-binh Pháp), cùng với
binh-lính Pháp và cả thường-dân Pháp nữa,
ngày nào cũng có không biết bao nhiêu vụ chúng cướp-bóc, đánh-đập, hãm-hiếp,
bắt-bớ, và cả bắn/giết, người dân Việt-Nam. Lợi
là một trong số những viên-chức Cảnh-Sát Quốc-Gia
đầu tiên đứng ra can-thiệp chống kẻ bạo-tàn. Tất-nhiên, không phải lần nào người
ngay-chính cũng thuyết-phục được kẻ gian-tà. Anh đã bị không ít trận đòn dã-man.
Đặc-biệt, đối với các phần-tử phạm-pháp bị bắt quả-tang, ngay cả
Việt-Minh, Lợi
cũng đòi cho họ được đối-xử đàng-hoàng.
Vào những ngày cuối tuần, cuối tháng, và sau mỗi cuộc hành-quân, hầu như tất cả
lính Pháp đều đổ xô ra đường; mua sắm thì ít
mà nhậu-nhẹt và kiếm gái thì nhiều. Người gốc
Ma-Rốc, Xê-Nê-Gan,
An-Jê-Ri,
Tuy-Ni Zi, từ các thuộc-địa của Pháp
ở Châu Phi, thì chỉ dạo phố và giải-trí
bình-thường; thỉnh-thoảng mới có vài vụ lôi-thôi. Người gốc thiểu-số
Ra-Ðê ở
Cao-Nguyên Trung-Phần Việt-Nam thì
chất-phác, không gây phiền-hà. Chỉ duy người Pháp
chính-quốc và người gốc Ðức cảm-tử trong
binh-chủng Lê-Dương là thường hay say-sưa
đánh người. Ðặc-biệt vào Ngày Quốc-Khánh
Pháp, 14 tháng 7 hàng năm, người lính
Lê-Dương được xá mọi tội nên tha-hồ
phá-phách, quỵt-giật, hành-hung người, và hiếp-dâm phụ-nữ
Việt-Nam.
Vào những dịp ấy, hầu hết nhân-viên Cảnh-Sát Quốc-Gia khắp Thành-Phố
Huế, ngoài giờ làm việc đều mặc giả
thường-dân, đổ dồn về Đường Trần-Hưng-Ðạo, nấp sẵn trong các con hẻm dẫn ra Bờ
Hồ, hoặc phiá trước hiên đình Chợ Ðông-Ba, hễ thấy có lính
Lê-Dương hoặc lính
Pháp giở trò áp-bức dân lành là ào ra nện
cho chúng những trận nên thân. Xong xuôi, “ông Ðồn
Lợi” mới dẫn nhân-viên trực Ðồn đến tiếp-ứng giải vây cho chúng và giúp
phương-tiện chở chúng về trại giùm.
Thảng-hoặc có Prévôté (Hiến-Binh Pháp)
xuất-hiện thì Lợi cho nhân-viên tuần đường
đi trước để thông-tin. Trong trường-hợp đó, các toán hành-hiệp đành nhẫn-nhịn
nhìn đồng-bào bị thiệt-thòi―vì
Prévoté chỉ can ngăn chứ không bắt giữ kẻ
phạm-pháp hoặc bồi-thường cho nạn-nhân―sau
đó, họ mới bám theo bọn tội-phạm trên đường chúng trở về trại binh, và chận dọc
đường mà trả thù.
Hồi đó, Ty Cảnh-Sát Huế là nơi cung-cấp
Phái-Viên Hành-Chánh (về sau gọi là
Quận-Trưởng) cho các Quận thuộc các Tỉnh, và các Cảnh-Sát-Trưởng cho các Thị-Xã,
khắp Miền Trung.
Ðội Túc-Cầu Cảnh-Sát Huế
nhiều lần đoạt giải vô-địch toàn-quốc.
Ban Kịch Thơ Cảnh-Sát Huế
vượt trội các đoàn kịch-nghệ khác, tỷ như của Nha Thông-Tin, của Nha Cảnh-Sát
Công-An, v.v... khắp Trung-Phần Việt-Nam.
Ðặng Ngọc Lựu,
đạo-diễn, và tôi, tác-giả, luôn luôn để dành cho
Lợi ít nhất là một vai kịch hài và một màn ngâm thơ tếu, trong mỗi đêm
trình-diễn trước quảng-đại đồng-bào. Không-khí văn-nghệ cởi-mở ấy cũng là một
dịp để “ông Ðồn Lợi” được người dân gần-gũi
và thân-thương mình hơn.
Dần dần, các chính-khách Quốc-Gia giành thêm được nhiều bước nhượng-bộ cuả
Pháp, và tiến tới nhất-trí mời Cựu-Hoàng
Bảo Ðại về nước nắm chính-quyền
trung-ương. Cùng với Hội-Ðồng An Dân Bắc-Việt
và Chính-Phủ Cộng-Hoà Nam-Kỳ-Quốc Tự-Trị,
Hội-Ðồng Chấp-Chánh Lâm-Thời Trung-Kỳ rút
lui. Chính-phủ Quốc-Gia thành-hình. Các
cơ-quan đơn-vị thuộc Pháp giải-thể lần lần.
Nhiều phe phái thay phiên nhau lên cầm quyền trong từng địa-hạt và vào từng
thời-kỳ. Nhưng “ông Ðồn Lợi” vẫn còn là
Trưởng Ðồn Cảnh-Sát Ðông-Ba. Các cấp chỉ-huy chưa độc-tài đến độ chỉ bổ-nhiệm
vây cánh của mình vào mọi chức-vụ điều-khiển mọi cấp trong mọi ngành như sau
này.
Ngày 07-5-1954,
Pháp thất-trận ở Ðiện Biên Phủ.
Ngày 07-7 cùng năm, Ông Ngô-Ðình-Diệm
chính-thức nhậm-chức Thủ-Tướng Chính-Phủ do Quốc-Trưởng
Bảo Ðại bổ-nhiệm, hướng về
Hoa-Kỳ.
Ngày 20 cùng tháng, Hiệp-Ðịnh Geneva ra đời,
chia đôi đất nước, mở đường cho Mỹ đến và
Pháp ra đi. Phản-ứng cuả
Quân-Ðội Quốc-Gia, thân
Pháp, là gây một cuộc khủng-hoảng chính-trị
trầm-trọng trên toàn-quốc, xuất-phát từ Sài-Gòn
và Huế. Nhưng
Huế mới là trung-tâm thực-nghiệm, với hành-động chống-đối quyết-liệt và
cụ-thể, vì Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu ở
Huế đang có cơ-hội điều-động và sử-dụng một
lực-lượng quân-sự lớn để vào tiếp-thu Tỉnh
Quảng-Ngãi mà Việt-Minh vì phải
tập-kết ra Bắc nên giao lại cho Chính-Quyền
Quốc-Gia; và Huế là nơi tập-trung cuả
gia-đình họ Ngô. Ngoài một số ít các nhà
cách-mạng sáng suốt, còn thì những người có ưu-tư vì thời-cuộc tuy dè-dặt nhưng
đều nôn-nao nghe ngóng dư-luận trong và ngoài nước để ước-đoán chiều hướng
biến-đổi cuả tình-hình, hầu chọn thế đứng cho mình.
Giới Công-An Cảnh-Sát vốn biết tôi đã tiên-đoán thế nào
Mỹ cũng nhảy vào
Việt-Nam nên đã chú-tâm trau-dồi tiếng
Anh từ nhiều năm trước đó, nay thấy tôi đã
qua bên quân-ngũ, giữ mục thời-luận hằng ngày trên mặt báo và trên Ðài
Phát-Thanh, tiếng nói chính-thức của Quân-Lực và
Tư-Lệnh Quân-Khu, bèn tìm cách thăm dò ý-kiến tôi. Lợi
là người được họ cậy nhờ, và tôi cũng cần có anh để liên-lạc với bạn-bè. Bên
ngoài thì sự tiếp-xúc thường-xuyên giữa Lợi
với tôi chỉ nhằm mục-đích văn-nghệ, vì tôi vẫn còn tiếp-tục sáng-tác cho
Ban Kịch Thơ cuả Cảnh-Sát
Huế và cho chính anh diễn-ngâm, nhưng bên
trong thì qua anh tôi thuyết-phục mọi người hãy đón nhận
Hoa-Kỳ, giàu-mạnh hơn, và hào-hiệp, chứ
không như Pháp, để nước nhà dễ sớm vươn lên.
Ngô Ðình Diệm
là người được Hoa-Kỳ chấp-nhận và ủng-hộ.
Trong cảnh tranh-tối tranh-sáng của những ngày tháng giao-thời ấy,
Lợi là một trong số ít những ủng-hộ-viên và
cổ-động-viên đắc-lực nhất nhưng cũng bất-vụ-lợi nhất mà tôi đã tranh-thủ được
cho Thủ-Tướng họ Ngô. Trong một nước còn
hậu-tiến, một lời phát-biểu của các viên-chức chỉ-huy Ngành Công-Lực, tỷ như “ông
Ðồn Lợi”, có một ảnh-hưởng khá lớn trong dân-nhân.
Rồi cố-vấn Mỹ vào, viện-trợ
Mỹ vào, và Diệm
tất-nhiên vững chân.
Vở kịch thơ dã-sử “Gươm Chính-Nghiã” của
tôi, dưới bút-danh Nguyệt Cầm, mà nội-dung
có ngụ-ý đề-cao Ngô Ðình Diệm, được khán-giả
nhiệt-liệt hoan-nghênh và yêu-cầu diễn lại nhiều lần. Các bài thơ trào-phúng của
tôi, dưới bút-danh Tú Ngông, mà chủ-đề là
“đả thực, bài phong, diệt cộng”, đúng theo chiêu-bài của
Diệm, qua tài diễn-xuất của “ông
Ðồn Lợi”, cũng được công-chúng tán-thưởng nồng-nàn.
*
Cuối năm 1956, mãn hạn động-viên, tôi về lại với
Ty Cảnh-Sát Huế.
Cầm lại cây bút dân-sự, tôi tái-hoạt-động văn-nghệ tích-cực hơn xưa.
Riêng trong công-quyền, ngoài công-vụ hằng ngày, tôi vun-đắp thêm cho Ban Kịch
Thơ, xuất-bản một tờ nội-san mang tên “Phục-Vụ”,
phổ-biến đi khắp các Tỉnh và lên cả Trung-Ương. Qua tờ nội-san này, tôi đã
hướng-dẫn và khuyến-khích “ông Ðồn Lợi”,
dưới bút-danh Hữu Lợi, viết tùy-bút, truyện
ngắn, và làm thơ. Tôi mở các lớp bổ-túc nghiệp-vụ chuyên-môn, dạy tiếng
Anh, cho cảnh-nhân toàn Thành, đồng-thời
thuyết-trình về những ý-nghiã cao-đẹp của chủ-nghiã
Nhân Vị, nòng-cốt của học-thuyết Diệm,
và phổ-biến tạp-chí “Thế-Giới Tự Do”, chiếu
phim cuả Phòng Thông-Tin
Hoa-Kỳ, cả cho đồng-bào trong khắp
địa-phương. Lợi là một trong những anh em
sốt-sắng nhất, ngoài giờ làm việc tham-gia phụ-lực tôi. Chúng tôi phục-vụ hăng
say, đúng theo tinh-thần của cuộc “Cách-Mạng
Quốc-Gia” mà Tổng-Thống Ngô Đình Diệm
chủ-trương.
Tuy thế, vì không phải là tay+chân thân-tín, cũng không phải là cừu non, nên dù
đem hết tâm-huyết ra để đóng góp, số đông, như Lợi
và tôi, vẫn không được đãi-ngộ công bình. Trái lại, có một số phần-tử kém-cỏi
nhiều mặt vẫn được tưởng-thưởng vượt quá lệ thường; thậm chí tùy-phái lao-công
cũng được thăng cấp sĩ-quan, mỗi khi lễ-lạc lớ-quớ trong bộ đại-lễ-phục
xuất-hiện trước quần-chúng làm trò cười cho mọi người. Có kẻ in thiệp báo tin
chịu lễ rửa tội gửi khắp toàn Miền, cho cả
các công-sở khác và những người không quen, như một thông-cáo chính-thức bảo-đảm
cho nấc thang giá-trị mới và tiền-đồ công-danh sự-nghiệp của mình.
Qua những mẩu tùy-bút của Hữu-Lợi mà tôi
không dám cho đăng, tôi thấy anh không còn chỉ là một cây cười vô-biên-giới, mà
đã nghiêm-túc chọn một giới-tuyến cho chính mình. Ðiều quan-hệ hơn hết là anh đã
dám giãi-bày, bằng giấy trắng mực đen, tâm-tình ẩn-ức của những tầng lớp thấp cổ
bé miệng, công-nhiên gửi cho báo đăng, thách-thức các thế-lực thịnh-thời.
Lâu nay, Lợi đến với tôi tại văn-phòng, tại
hội-đường, tại câu-lạc-bộ, là những nơi hầu như khi nào cũng có đồng-nghiệp lắng
nghe chúng tôi. Từ nay, tôi đến với Lợi tại
Ðồn Cảnh-Sát Ðông-Ba, là nơi luôn luôn có
quá nhiều giới người, mà lại có quá nhiều loại việc, nên không ai chú ý đến
nội-dung câu chuyện của chúng tôi.
Lợi
có thói quen uống cà-phê với thật nhiều đường, mà anh gọi là chè-phê. Bên ly
chè-phê, “ông Ðồn Lợi” lắc đầu ngao-ngán kể
thêm cho tôi biết mỗi lần vài ba sự việc mà tôi chưa hề nghe.
Vẫn với thói quen chồm nửa người trên ra
hướng cửa sổ, Lợi chỉ tay về phiá dãy phố
buôn bán sầm-uất dọc lề bên kia Đại-Lộ Trần Hưng Ðạo, nơi đến đầu Cầu Gia-Hội
thì giáp góc với Đường Huỳnh-Thúc-Kháng song-song với Đường Gia-Long. Anh nói:
– Hôm nọ là Bửu Bang chủ tiệm “Rồng
Vàng”, hôm kia là Phan Văn Thí chủ
hiệu “Đức Sinh”, hôm khác
là nhà buôn Lý
Lâm Thịnh, rồi
Châu chủ hãng “Nam-Hưng”,
rồi thầu-khoán Nguyễn Giáp, rồi
thương-gia Phan Cho. (Chưa kể
Nguyễn Văn Yến,
Nguyễn Đắc Phương đã bị giết chết rồi.) Ngày mai, ngày mốt, sẽ đến phiên
ai đây?
Ðó là những người có máu mặt ở trong khu-vực trách-nhiệm của
Lợi, đã lần-lượt bị bắt giam, bị tịch-biên
tài-sản, hoặc ít nhất là bị vây hãm phạm-vi kinh doanh.
Trong lúc phong-trào bài-trừ tứ-đổ-tường
dâng lên cao thì những tệ-đoan xã-hội khác, trầm-trọng và nguy-hại hơn, lại do
chính một số các con-cưng của chế độ gây ra.
Một dược-sĩ đêm đêm giả làm tài-xế đạp xe-đạp xuống các bến, dưới Cầu
Trường-Tiền, dọc bờ Sông Hương, o-mèo các cô giúp việc của những gia-đình
khá-giả ở các dãy phố từ Cửa Thượng-Tứ xuống đường Hàng-Bè. Thường thì đến mười
một giờ tối cửa tiệm mới đóng; đợi dọn-dẹp xong, chủ nhà đi ngủ, các cô mới mang
áo quần xuống sông giặt-dịa, hoặc gánh cặp thùng nhiều chuyến đi lấy nước về đổ
đầy hồ chứa để có đủ dùng cho ngày hôm sau. Ðó là thời-gian tự-do; ai muốn nghỉ
sớm thì gắng làm nhanh, còn ai muốn đàn-đúm bạn-bè thì cứ rán mà thức khuya. Họ
là con gái nhà quê, ít chữ nghiã, nhưng có nhan-sắc nên mới được các chủ-nhân
ăn-nên làm-ra chọn mướn cho phù-hợp với cảnh thanh-lịch thị-thành. Thế là, thay
vì phải mặc đồ lớn đi chầu-lụy cả một đại-gia-đình, vất-vả tốn kém suốt năm mà
chưa chắc đã nắm được bàn tay của một cô gái Huế
hộ-đối môn-đăng, viên dược-sĩ nhà-ta chỉ cần bỏ ra vài xu mua một gói đậu phụng
rang, trổ tài ăn nói của kẻ học rộng biết nhiều ra mà chiêu-dụ, mỗi khi một con
mồi, là cầm chắc trung-bình mỗi tuần phá được cuộc đời cuả ít nhất là một cô gái
còn trinh. Lợi đã tình-cờ bắt gặp một cặp
trai+gái đang ôm nhau trên bãi hoang, và nhận-diện ra gã đàn-ông chính là viên
dược-sĩ kia; nhà trí-thức ấy đã tâm-tình riêng với “ông
Ðồn Lợi” như trên. Rồi một hôm, được tin báo có kẻ bị tình-địch đâm ở bờ
sông, Lợi cùng nhân-viên chạy đến thì không
còn thấy người nào. Riêng Lợi lần theo thì
gặp được nạn-nhân-mà-là-tội-nhân đang ôm vai lủi-thủi về nhà. Y năn-nỉ “ông
Ðồn Lợi” đừng ghi lời báo-cáo “vô căn-cứ” nọ vào sổ trực đêm, vì sợ sáng
sau trình sổ lên Ty thì Ty sẽ cho mở cuộc điều-tra, nhà tai-mắt sẽ mất mặt với
mọi người. Cứ thế mà tên hiếu-dâm vô-lương kia gặp gió thuận chiều nên vẫn lên
cao như diều.
Một giáo-sư đại-học bị Ðội Biệt-Ðộng của Ty bắt gặp “ngủ
đò” cùng với vợ bạn trên sông Hương. Ở Huế,
có cái thú thuê đò mà ngủ giữa lòng sông: vừa mát-mẻ nhờ không-khí trong lành,
vừa thoải-mái vì không ngại bị ai quấy rầy, lại kín-đáo bởi sông thì tối mà đò
không thắp đèn, và nhất là không đòi hỏi khách, như khi mướn phòng khách-sạn,
phải khai tên người thuê. Do đó, đa-số trường-hợp
ngủ đò đều là để ăn nằm với nhau. Trong cuộc “cách-mạng
quốc-gia”, mọi người đều phải noi gương “đạo-đức
của Ngô Tổng-Thống”, cho nên dù là vợ+chồng với nhau mà đi ngủ đò thì
cũng bị xem là tội-lỗi rồi, huống-hồ họ là những ông nọ, bà kia. Rốt cuộc,
nội-vụ đã được ém nhẹm, và “ông Ðồn Lợi”
không thể ghi chép gì trong sổ trực đêm, mặc dù sự việc xảy ra trong hoạt-vực
của mình...
*
Hôm ấy, Lợi nhắn các bạn đồng cảnh-ngộ là
Trần Xuân Tự,
Trần Vĩnh Thuận, Ưng Hạc,
Nguyễn Thông,
Nguyễn Duy Hát, Nguyễn Mầm,
Đỗ Dzư, Tôn
Thất Ninh, v.v... đến Ðồn Cảnh-Sát Ðông-Ba để cùng gặp tôi.
Không-khí có vẻ nghiêm-trọng khác thường. Khi tôi mới ngồi xuống ghế, Lợi đã hỏi
ngay:
– Anh em muốn biết sự thật: anh đã có bao nhiêu “Д
rồi ?
Tôi đã có nghe nhiều người kháo chuyện với nhau về cái thang “Д này. Dân-chúng
truyền miệng với nhau:
Một “Д mới đứng ngoài sân,
Hai “Д mới được bước chân vô nhà;
Ba “Д: con cháu ruột rà;
Bốn “Д là chú, là cha trên đầu...
Nay Lợi nói ra, tôi muốn nhân dịp tìm hiểu
rõ hơn, nên đáp chung-chung:
– Thì người nào trong chúng ta cũng đều có một “Д cả. Chúng ta là “đồng-Ðoàn”
với nhau, tức đều có chân trong Ðoàn [“Công-Chức Cách-Mạng Quốc-Gia”].
Thuận
tức “Thuận Xù” lắc đầu:
– “Ðoàn” thì nói làm gì? Nông-dân thì Ðoàn
Nông-Dân Cách-Mạng Quốc-Gia, v.v... Một “Д thì chỉ là lính; hai “Д mới là
sĩ-quan chứ!
Tôi cười:
– Thế thì tôi không phải là “sĩ-quan”!
Lợi
đưa tay bắt tay tôi:
– Xin lỗi anh. Chúng tôi tưởng anh đã lên hai “Д rồi!
– Cho nên anh rủ các bạn đến đây để hài tội tôi chứ gì?
“Thuận Xù” kết-luận:
– Người như anh mà muốn kiếm thêm “Д thì chúng tôi còn biết trông nhờ vào ai!
Thật ra, không có một văn-bản nào quy-định như thế; nhưng cứ dựa vào sự việc xảy
ra, người dân―đã
từng sáng-tác tục-ngữ, phương-ngôn, ca-dao, hò, vè―đã
hình-dung ra cái thang mới ấy, gồm có bốn cấp bậc “Д:
“Đ” thứ nhất là “đồng-Đoàn” như đã nói trên;
“Д thứ hai là “đồng-Ðảng”, tức đã vào Ðảng [“Cần
Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng”];
“Д thứ ba là “đồng-Ðạo”, tức đã theo Ðạo
[Kitô-Giáo].
Nhưng nếu có “Д thứ tư thì mới lên đến tột-đỉnh quyền-lợi và uy danh: “đồng-Ðịa”,
tức là cùng Ðịa-Phương, quê-quán [Quảng-Bình
hay Thừa-Thiên] với gia-đình họ
Ngô và các vệ-tinh.
Kết-nạp đảng-viên hay thu-nhận tín-đồ là một việc làm thông-thường; nhưng cậy
thế cường-quyền và đơm mồi tục-lụy để đạt mục-đích là một việc trái với đạo-đức
thông-thường.
Ðảng lãnh-đạo thì cứ lãnh-đạo, miễn sao đem lại hạnh-phúc cho mọi người thì
tự-nhiên quần-chúng ủng-hộ và tham-gia. Tại sao ép buộc người ta theo mình, trở
mặt với các chính-đảng khác, các tổ-chức ái-quốc kỳ-cựu khác, vốn có quá-khứ
tranh-đấu vẻ-vang gắn liền với lịch-sử nước nhà; mà không thuận theo thì bị xem
là phản-loạn, nghịch thù. Ðâu là quyền tự-do lựa chọn, kể cả quyền tự-do không
nhập bọn với bất cứ một bọn nào.
Ðối với đa-số đồng-bào mà tinh-thần tam-giáo thấm-nhuần, sự dốt-nát và vụng-về
của thiểu-số công-thần thao-túng chế-độ, trong vấn-đề này, để giúp cho
tổng-giám-mục sớm lên hồng-y, bị xem là trắng-trợn xâm-phạm đời sống tâm-linh
của người dân: dồn ép công-chức, quân-nhân, và cả thường-dân, từ bỏ tín-ngưỡng
của mình để phải tuân-phục tín-điều của tập-đoàn cầm quyền, chà-đạp lên các
giá-trị truyền-thống của nền triết-học Ðông-Phương vốn đã un đúc nên tinh-thần
quốc-gia cho toàn-dân.
(Trước đây khi Pháp mới trở lại vào năm 1947, Cụ
Trần-Văn-Lý, một nhân-sĩ Kitô-Giáo, đã làm
Chủ-Tịch Hội Ðồng Chấp-Chánh Trung-Kỳ nhiều năm. Trong tình-trạng chiến-tranh,
hiến-pháp không có, luật-lệ hỗn-tạp, tư-pháp một chiều, thì quyền-hành của Cụ Lý
đối với người dân sâu rộng bội phần hơn so với Vua
Bảo-Ðại ngày xưa; thế mà cụ có lợi-dụng cơ-hội để bắt ai theo đạo của
mình đâu? Cho nên, đến năm 1967, mặc dù cụ không
đắc-cử nhưng đã có biết bao nhiêu người tuy khác tín-ngưỡng với cụ song thâm-cảm
đức-độ của cụ mà hy-sinh quyền-lợi tôn-giáo và đảng-phái của mình để dồn phiếu
cho cụ mong cụ lên làm Nguyên-Thủ Quốc-Gia.)
Vấn-đề tế-nhị vô cùng, đâu phải dễ như chuyện “chớp
thời-cơ”, “đốt giai-đoạn”, “thưà
thắng xông lên” của cộng-sản độc-tài xem dân như dân ngu.
Cộng-sản củng-cố hệ-thống bằng thủ-đoạn phi-nhân; đằng này chống Cộng mà lại
áp-dụng phương-sách và phương-tiện của quân thù...
Ðến nay thì chính bản-thân “ông Ðồn Lợi” đã
bị đẩy vào chân tường. Dù anh có muốn nhắm mắt, ngậm miệng cho qua ngày, thì
cũng vẫn không yên thân. Bộ-hạ của tập-đoàn chuyên-quyền đã đến móc nối “ông
Ðồn Lợi”, cũng như các bạn kia, và tôi. Thuận theo thì danh-lợi
hanh-thông. Trái lại, thì...
Bên ngoài thì một số các phần-tử cứng đầu, không chịu có hơn một “Д, mà thật-sự
có khả-năng, vẫn được bổ-nhiệm vào các chức-vụ chỉ-huy cấp thấp, cấp trung.
Nhưng bên trong thì vì chỉ tuân phục một hệ-thống chính-quyền, chứ không
chấp-nhận vai trò giật dây của các thế-lực đằng sau, nên họ bị kỳ-thị, bị
ếm-trù, không được thăng-tiến dễ-dàng, và có thể bị hãm-hại bất-cứ lúc nào.
Lợi
và các bạn tóm-lược tình-hình chung.
Họ không đòi hỏi tôi phải có thái-độ hay hành-động gì, nhưng kết-luận là họ đặt
tin-tưởng vào tôi.
Xưa nay tôi vẫn tự mình chọn lấy đường đi của mình, tiền-phong bước những bước
đầu, chứ không chịu quyền lãnh-đạo của ai.
Nhưng “ông Ðồn Lợi” và các bạn không lập
thành một nhóm để lôi kéo tôi.
Dù sao, cùng với vô-số cá-nhân và tập-thể khác, họ là nguồn gốc của những đợt
sóng cảm nghĩ tạo nên nền móng cho các phong-trào đột-khởi trong dân-gian.
Thế rồi biến-cố Ngày Lễ Hai Bà Trưng
3-3-1960 xảy ra*.
-------
*Xem “Lãnh-Chúa Ngô Đình Cẩn” trang 215.
Lời phát-biểu công-khai của tôi tại Ty Cảnh-Sát Huế, rằng chế-độ có nhiều ung
độc, đã có tác-dụng của một mồi lửa châm cháy ngòi thuốc súng nối liền vào quả
mìn nhân-tâm.
Sau đó là Phong-Trào “Phật-Tử Tranh-Ðấu” đòi
quyền bình-đẳng và chống đàn-áp tôn-giáo, được sự đồng lòng của quảng-đại
quần-chúng, mà hăng-hái nhất là giới sinh-viên, và quyết-liệt nhất là giới
quân-nhân.
Trong lúc bất-cứ một tu-sĩ Kitô-Giáo nào, nếu muốn, cũng có thể tiếp-xúc với
Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm nhanh-chóng và
dễ-dàng, thì Ðức Ðại-Lão Hoà-Thượng Thích Tịnh
Khiết, là Hội-Chủ Tổng-Hội Phật-Giáo
Việt-Nam, một tổ-chức quy-tụ trên chín mươi
phần trăm dân-số trong nước, đang bị bệnh nặng ở
Huế mà cũng rán sức vào tận Sài-Gòn
để xin gặp Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, ước
mong giải-quyết vấn-đề; thế nhưng Ngài phải chờ đợi nhiều ngày mà vẫn hoài-công.
Nhiều cao-tăng và Phật-Giáo-Ðồ theo nhau tự-thiêu từ Thủ-Ðô đến các Tỉnh Thành.
Cả thế-giới nhờ ngọn lửa Thích Quảng-Ðức mà
thức tỉnh lương-tri.
Rồi cuộc Cách-Mạng 1-11-1963, rồi các
biến-cố khác xảy ra.
Rồi “ông Ðồn Lợi” không còn làm Trưởng Ðồn
Cảnh-Sát Ðông-Ba nữa.
Anh từ-giã Huế; rồi anh từ-giã cuộc đời, để
lại tiếc thương cho những ai đã từng sinh sống trong khu-vực này, đã từng
tán-thưởng những màn kịch vui và giọng ngâm thơ tếu của người Cảnh-Sát Văn-Nghệ
mà không cảnh-sát văn-nghệ này.
*
Ðại-Úy Nguyễn Công
Văn gọi máy báo-cáo đã bắt được một cơ-sở
tiếp-tế nội-thành và một cán-bộ mậu-dịch từ miền quê lên, cùng hai tấn gạo được
che giấu dưới những món hàng thông-thường, trong một chiếc ghe đang rời bến, để
chở về tiếp-tế cho Việt Cộng ở mật-khu, đúng với tin-tức tình-báo cuả E6 chúng
tôi.
Tiếng Văn vang lên từ máy vô-tuyến cắt đứt
dòng hoài-niệm về người bạn cũ trong tôi.
Tôi ra lệnh chuyển-giao nội-vụ cho nhà chức-trách địa-phương, là người hiện nay
thay thế “ông Ðồn Lợi” ở Cuộc―tên
mới cuả Ðồn―Cảnh-Sát
Ðông-Ba.
Bây giờ ở đây chỉ có một Trưởng Cuộc Cảnh-Sát Quốc-Gia kiêm-nhiệm đại-diện của
Ngành Ðặc-Biệt, của tôi, tại cấp Phường này, chứ không còn có tên hề mặt-ngựa đã
có một thời chọc cười tức-bụng chảy-nước-mắt cho cả mấy thế-hệ đồng-bào ở
cố-đô...
*
Đại-Úy Nguyễn Công Văn đến với chúng tôi,
báo-cáo tóm-tắt công-tác xong, tôi bảo mọi người lên xe rời
Huế trở vào
Đà-Nẵng.
Văn
nói với Đạm, Chánh Sở Tác-Vụ, mà nhìn vào
tôi:
− Qua đặc-nhiệm này, chắc ông Giám-Đốc muốn “dằn mặt” Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực ngoài
này, chứ gì?
Tôi không trả lời, quay nhìn về Đạm.
Đạm
phát-biểu:
− Mình là Cảnh-Sát Quốc-Gia, thì mình có bổn-phận và quyền-hạn phanh-phui mọi vụ
phạm-pháp bất-cứ ở đâu. Nhưng mình là Cảnh-Sát Đặc-Biệt, thì việc-làm chính của
mình là chính-trị chứ không phải là hình-sự, mặc dù mình cũng có thể nhúng tay
vào các vụ hình-sự, vì mình là Hình-Cảnh-Lại cơ mà.
Nhưng mình có dòm-ngó gì đến các việc-làm khuất-tất của ai đâu.
Ngành Đặc-Biệt Khu thỉnh-thoảng mới hành-động phụ giúp Ngành Đặc-Biệt các
Tỉnh/Thị thuộc Khu trong những trường-hợp đặc-biệt mà thôi, thế thì chỉ là
việc-làm bình-thường, chứ có gì là “dằn mặt” ai đâu!