ĐỐI THOẠI NGƯỜI VÀ THƠ
I
Ngàn trang thơ nào đã nói được gì
Qua vui khổ suốt đời mình mài miệt?
Bởi chút mình có: đời nào cần-thiết
Mà cái đời cần: mình lại tay không!
Thôi, thì đành thôi – ngày tháng lặng thầm
Một ngày sống mong một ngày đẹp nghĩa
Sáu mươi tuổi trời chờ ra nghĩa-địa
Vẫy tay cuộc đời ngậm đắng nuốt cay!
Có phải khổ đau chắp cánh thơ bay
Nếu quả thế còn gì không mơ ước?
Cuộc trần truân chuyên thực, hư trái ngược
Ngàn trang thơ toại ý được câu nào?
Thi ca đỉnh cao – biển vẫn sóng gào
Sức mòn mỏi, ý cùng năng-lực tận
Canh
cánh bên lòng trĩu đau mối hận
Thương quê-hương xa xót nỗi cơ-cầu!
Viễn khách chiều, đêm ngồi nhớ rừng sâu
Thời oanh liệt qua – tiếp thời khốn kiếp!
Rũ chiến y khoác áo tù oan nghiệt
Tổ-quốc ơi! chúng con tội tình gì?!
Tháng sáu bảy lăm Mẹ tiễn con đi
Ngày trở lại cỏ xanh mồ lặng ngắt
Tim quặn thắt máu hằn lên đôi mắt
Thơ giúp được gì trước nỗi quằn đau?
II
Chưa nói được gì cũng bởi do đâu?
Vốn vô tội -- thơ một đời nghiệp dĩ
Người và thơ từng khi cùng ngã quị
Ngoài thơ ra ai chung thuỷ bên người?
Những lúc đớn đau thơ ban nụ cười
Phút sa ngã ai vực người đứng dậy?
Bốn mưới năm hơn thơ – người tình thuở ấy
Cùng ra chiến trường, vào ngục tối oan khiên!
Sáng mắt sáng lòng thơ khơi dậy niềm tin
Giờ tuyệt vọng chính thơ là ngọn đuốc
Mười ba năm oan khiên ai người thân thuộc
Dỗ
giấc khuya đông đói rét nhục nhằn?
Áo trấn thủ sao bằng thơ chăn ấm
Ấp ủ hình hài gầy đét ma trơi?
Quản bút còn đây thưa chuyện cùng đời
Bát sắn nhạt – ơn thơ – thìa muối mặn!
Quên đành sao tháng năm dài lận đận
Sống tới giờ này và giữ vững niềm tin
Tiếp hơi thở – thơ người tình tử, sinh
Xếp,
gác bút ai bên đời để sống?
III
Ngọn đuốc, kiếm thép, nụ hồng, chăn bông
Làn gió nhẹ giữa trưa đời oi bức
Tạ lỗi, hàm ân qua suy tư chợt thức
Tâm nguyện cùng thơ xin trọn nghĩa một đời!
LÊ NGUYỄN