CẢI-MỆNH
TIẾNG VIỆT
TIẾNG
NÓI
& CHỮ
VIẾT
Bài của NGƯỜI
THƠ
NH̀N CHUNG
Trong
sinh-hoạt văn-học của Người Việt
Hải-Ngoại trong thời-gian qua, chúng ta thấy nổi
lên một “sự-kiện” khác thường: có một
số thi+văn-sĩ và nhà “ngôn ngữ học”, đă
thể-hiện sáng-kiến mới lạ của ḿnh, trong
tác-phẩm đăng-tải trên báo cũng như
ấn-hành thành sách, về Việt-ngữ – về
chữ và nghĩa của tiếng Việt Nam.
*
*
*
Thật ra,
ước muốn “cải-cách” chữ Việt đă
được nhiều người ôm-ấp, ḍ-dẫm
hoặc táo-bạo thực-hiện, ít nhất cũng
từ hơn nửa thế-kỷ nay rồi, nhất là
sau khi “Phong-Trào Truyền-Bá Quốc-Ngữ” quyết-định
phát-âm B, C, D, Đ là bờ, cờ, dờ, đờ (thay cho
bê, xê, dê, đê theo lối phát-âm nguyên-thủy) và
gọi “i” là “i ngắn”, “y” (i gờ-rếch=i
Hy-Lạp) là “i dài”, v.v...
A.
TẠI
MIỀN NAM:
Chúng ta có
thể kể ra một số thí-dụ:
1. Nhà thơ lăo-thành Đông-Hồ thành-lập một nhà xuất-bản mệnh-danh là “Yễm Yễm Thư-Trang”, gây nên bàn-tán sôi-nổi một thời. Có người giải-thích là “Yễm Yễm” thay cho “Diễm Diễm”. Có người căi rằng chữ “Y” không thể phát-âm thành “Giờ”, và “Giờ” (giọng nhẹ) cũng không thay thế được “D” là “Dờ” (giọng nặng); mà dù nó có được đọc là “Dờ”, th́ nó cũng mới cộng thêm với “ễm” để làm thành “Dễm” chứ chưa có thể cộng được với “ễm” mà làm thành “Diễm”. Có người cho rằng đồng-bào Nam Phần (và cả Trung Phần) phát-âm vần “G” và vần “D” giống nhau (thí-dụ giao-dịch, giáo-dục, gian dối) nên ở đây Đông-Hồ (cùng các đồng bạn) muốn làm một công ba việc: vừa biến nguyên-âm “Y” thành phụ-âm “Y”, vừa ḥa-hợp cả hai phụ-âm “giờ” và “dờ” thành một, vừa ghép thêm vào nó một nguyên-âm “i” hiểu ngầm (sous-entendu, understood) thành ra “Gi” hoặc “Di” để cộng thêm với “ễm” mà làm thành “Diễm”. Như thế th́ chúng ta sẽ có “yết” thay cho “giết”, “yếng” thay cho “giếng”, và cả “yệt” thay cho “diệt”, v.v...?!). Trong thời-gian đó, có người vẫn cứ nửa đùa nửa thật phát-âm “yễm yễm” là “iễm iễm” hoặc “dễm dễm” như thường. Song rồi mọi việc cũng đă lắng yên, v́ thắc-mắc măi cũng chán, và chính Đông Hồ hầu như cũng không phát-minh được thêm những chữ nào khác trong hướng đổi mới chữ nghĩa của nước ḿnh.
2.
Khoảng cuối thập-niên 1940, đầu thập-niên
1950, tại Saigon có một nhóm nhà văn đồng-thời
với Tam Ích, Nguyễn Văn Xuân, v.v... đă sáng-tạo
ra một số từ mới, trong đó có từ ghép
“sáng giá” mà hồi đó họ giải-thích là
từ-ngữ viết tắt của “sáng-tác giá-trị”,
khiến trên mặt báo có người nghịch đùa
dựa theo đó mà viết “thiếu-nữ đẹp-đẽ”
là “thiếu đẹp”, “vô cùng ích lợi” là “vô
ích”, v.v...
3. Nhà văn Nguyễn Ngu Ư tự viết tên ḿnh là
Nguyễn Ngu Í, cũng khiến thiên-hạ chỉ-trích gay-gắt
lúc đầu.
4.
Nhà giáo Lê Bá Kông tự viết tên ḿnh là Kông thay v́ Công.
5.
Thời-kỳ cực-thịnh của văn-học
Việt-Nam Cộng-Ḥa trước quốc-biến 1975, có
một số người đă sửa tên ḿnh là “Dũng”
thành “Dzũng”, có lẽ đánh vần dựa theo cách
viết tên của một nhân-vật trong một cuốn
truyện ăn khách một thời (là “Dzũng Đa-Kao”)...
B.
TẠI MIỀN BẮC:
Trong
lúc đó, ở Miền Bắc Việt-Nam người ta
đă “cắt mạng” tiếng Việt một cách toàn-diện,
đồng-bộ, quyết-liệt, nhưng độc-đoán
và thô-bạo có thừa. Việt-Cộng lập hẳn
một “Viện Ngôn Ngữ Học” để sáng-chế
ra một số từ mới, thống-nhất định-nghĩa
cũng như quy-định cách viết, cách dùng các
từ liên-hệ thế nào cho thích-hợp với
khẩu-hiệu “dân tộc, khoa học, đại chúng”
mà họ đề ra, không những cho văn-học,
nghệ-thuật, mỹ-thuật, mà c̣n cho cả một
số lĩnh-vực khác nữa, chẳng hạn y-khoa, v.v...
Chắc-chắn là các đồ-đệ Mác+Lê lô-can
rất muốn noi gương Hồ Chí Minh khi ông ta tự
tay nắn-nót viết tên trên b́a cho một tập sách là
“Đường Kách Mệnh” mà đảng
cộng-sản Việt-Nam xem là một kiệt-tác trong
“toàn-thư” của họ Hồ, kẻ cũng là tác-giả
của những từ-ngữ quái-đản kiểu “điệu
ḥ vĩ dặm”, v.v...
Song
le, ở một mức-độ nào đó,
Việt-Cộng cũng đă thành-công trong việc gán cho
các từ-ngữ của họ những ư-nghĩa với
những mục-đích đặc-biệt, để
bắt “toàn đảng, toàn quân, và toàn dân”
học-tập và sử-dụng rập khuôn; đến
nỗi, trong thời-gian c̣n chiến-tranh Việt-Nam, người
Mỹ đă phải khổ-công sưu-tập, điều-nghiên
và phổ-biến nội-bộ những cuốn “VC
Terminology” (thuật-ngữ Việt-Cộng) để giúp
các giới t́nh-báo và thông-dịch phiên-dịch tránh
sự khó hiểu, hiểu sai và hiểu lầm mỗi khi
gặp phải các tài-liệu hoặc lời-lẽ
của phe bên kia. Có một từ-ngữ đă nhiều
phen gây bất-đồng ư-kiến giữa cố-vấn
Hoa-Kỳ với đồng-minh Việt-Nam Cộng-Ḥa:
Mặt Trận Dân-Tộc Giải-Phóng, mà phía Quốc-Gia
dịch là “People’s Liberation Front” (PLF), phía
Việt-Cộng dịch là “National Liberation Front” (NLF).
Phía
Việt-Nam Cộng-Ḥa cho rằng “National Liberation Front” có
nghĩa là “Mặt Trận Quốc-Gia Giải-Phóng”
chứ không phải “Mặt Trận Dân-Tộc Giải-Phóng”.
Thế là người Mỹ “đi hàng hai”: đối
với Việt-Nam Cộng-Ḥa th́ dùng People’s, đối
với Việt-Cộng th́ dùng National; nhưng về phía
Mỹ với nhau th́ họ dùng từ-ngữ National Liberation Front
(hiện nay ta thấy dẫy đầy trong các thư-viện
của Thế-Giới Tự-Do) để chỉ “Mặt
Trận Dân-Tộc Giải-Phóng”. (Do đó, một Nation là
một dân-tộc; và danh-từ Nation dẫn đến tính-từ
National, rồi đến các danh-từ Nationalism và
danh-từ kiêm tính-từ Nationalist, mà Nationalist cũng có
nghĩa là người yêu nước, nên Hồ Chí Minh là
lănh tụ số một của “mặt trận dân-tộc”
ấy đă được một số người
Mỹ xem là “nhà... ái-quốc”! Ngược lại, các
bạn có biết Việt-Cộng gọi phe Quốc Gia
“Nationalist” là ǵ không? Là bọn “dân-tộc chủ-nghĩa”
đấy!) Một số thuật-ngữ được dùng
trong bản văn tiếng Việt của Hiệp Định
Paris 1973 cho thấy là Việt-Cộng đă nắm
được ưu-thế, về mặt chữ nghĩa,
trên bàn hội-nghị, và trong thực-thi “ngưng
bắn”, ngoài đời, về sau.
Bởi
vậy, ngay đến hôm nay, mặc dù có nhiều từ
của Việt-Cộng mà người Quốc Gia không
chấp-nhận, chúng tôi nghĩ rằng các giới ngôn-luận
và lư-luận chính-trị vẫn nên t́m hiểu để
nắm vững ư chính qua các từ họ dùng để
diễn-đạt vấn-đề; nếu không th́ “ông
nói gà, bà nói vịt”, ḿnh không hiểu ư của người,
mà chỉ hiểu từ của người theo ư của ḿnh,
th́ chuyện tranh-luận vẫn măi măi không đi đến
đâu. Thí-dụ: Việt-Cộng không bao giờ nói là
họ “xây-dựng hay tiến lên xă-hội chủ-nghĩa”,
mà chỉ có người Quốc Gia nói là Việt-Cộng
nói như thế mà thôi; bởi lẽ Việt-Cộng quy-định
dứt-khoát rằng chủ-nghĩa xă-hội (socialism) là
một danh-từ, c̣n xă-hội chủ-nghĩa (socialist) là
một tính-từ (không phải là một “society of
doctrine” như một nhân-vật Quốc-Gia đă
dịch để phê-phán Việt-Cộng), nên họ
chỉ “xây-dựng hoặc tiến lên chủ-nghĩa xă-hội”
(xây-dựng hoặc tiến lên một chủ-nghĩa,
đó là chủ-nghĩa xă-hội, socialism, một socialist
doctrine, một danh-từ); và nếu phải dùng từ ghép
“xă-hội chủ-nghĩa” th́ họ dùng nó với tư-cách
một tính-từ (-ist), thí-dụ “xây-dựng hoặc
tiến lên xă-hội xă-hội chủ-nghĩa” (tức là
xă-hội theo chủ-nghĩa xă-hội, socialist society).
Cũng
thế, “vinh quang” là danh-từ, “quang vinh” là tính-từ,
nên Việt-Cộng nói “lao-động là vinh-quang”: cả
hai đều là danh-từ: Lao-Động đồng-nghĩa
với Vinh-Quang; nhưng khi nói đến tính-cách (thuộc-tính)
th́ họ nói “nước Việt-Nam quang-vinh” (glorious
Vietnam) chứ không nói là “nước Việt-Nam vinh-quang”
(v́, theo họ, nói nước Việt-Nam vinh-quang tức là
nói sai ngữ-pháp thành “glory Vietnam” chứ không phải
“glorious Vietnam”)! Bảo-đảm khác với đảm-bảo,
thống-nhất khác với nhất-thống, vân vân và vân
vân...
*
*
*
Trở
lại với hiện-tượng “đổi mới”
chữ nghĩa của Người Việt tại Hải
Ngoại, trong thời-gian gần đây, nhiều người
đă đưa ra một số thay đổi mới
lạ về chữ và nghĩa tiếng ta, chúng tôi tạm
kể một số thí-dụ điển-h́nh:
I/
VỀ H̀NH-THỨC:
Ia- Giáo-sư Nguyễn Đ́nh Ḥa âm-thầm giữ vững
lập-trường về dấu nối (trait d’union,
hyphen), cách viết chữ hoa, và nhất là việc thay
thế y (i dài) bằng i (i ngắn). Theo họ Nguyễn th́
các chữ vốn viết là y (i dài) nay phải viết
lại như sau: địa-lí, thế-kỉ 21, Tổng-thư-kí,
hồi-kí, kĩ-thuật, công-ti, lí-tưởng, Mĩ,
Hoa-ḱ, kỉ-niệm, mĩ-thuật, kĩ-nghệ, v.v...
Ib-
Về các dấu-nối th́ cũng có một số người
đồng-ư với Nguyễn Đ́nh Ḥa. Theo dơi sách báo
hải-ngoại, độc-giả thỉnh-thoảng cũng
thấy điều đó; nổi bật nhất là nhà văn
Vơ Long Tê tức Vơ Phương Tùng ở Gia-Nă-Đại:
họ Vơ mỗi lần gửi bài đăng báo là đ̣i
hỏi nhà báo phải sửa chính-tả (có dấu
nối) đúng theo bản thảo của ḿnh. Trong
suốt hai cuốn hồi-kư “Về Vùng
Chiến-Tuyến” và “Cảnh-Sát-Hóa” của Lê Xuân
Nhuận, cái dấu gạch nối dùng với các từ
hợp-âm
cũng đă được phục-hồi.
Ic-
Riêng về chữ “i” (i ngắn) thay cho “y” (i
dài), th́
một trong những nhà biên-khảo và soạn từ-điển
bằng chữ quốc-ngữ đầu tiên trong văn-học-sử
Việt-Nam từ cuối thế-kỷ thứ 19, đầu
thế-kỷ thứ 20, cũng đă áp-dụng khi tự
viết tên của ḿnh, là Húnh Tịnh Của. (Về sau,
không nhớ tự bao giờ, chữ Húnh đă được
viết thành chữ Huỳnh.) Nhưng, trong năm 1996, nhà
xuất-bản Văn Nghệ ở
Id-
Trong một phạm-vi giới-hạn, trên tờ “Đất
Mẹ” của “Phong trào yểm trợ giáo hội công
giáo Việt Nam”, xuất-bản tại Texas, trợ-bút
Nguyễn Ước cũng dùng i-ngắn thay cho i-dài (thí-dụ
chu-ḱ, thiên-niên-kỉ, kỉ-nguyên, kĩ-lưỡng...),
trong lúc “kỹ nghệ”, “vật lư”, “người
Ư”, “nước Ư”... th́ vẫn c̣n dùng y (i-dài). Chưa
rơ lư-do.
Ie-
Cũng về chuyện i-ngắn i-dài, bên nước láng-giềng
Gia-Nă-Đại, Giáo-Sư Lê Hữu Mục đă cho
xuất-bản tác-phẩm “Trần Lục” viết
về Linh-Mục Trần Lục, trong đó có chương
“Cụ Sáu đối-diện với phong-trào Văn Thân”
mà đặc-điểm nổi bật là, cùng
một chủ-trương với Nguyễn Đ́nh Ḥa,
họ Lê đă đổi tất cả các mẫu-tự
“y” (i dài) ra thành “i” (i ngắn), gây nên sự
phản-đối của nhiều người, mà
quyết-liệt nhất là ông Từ Chuyên, người
viết trên “Văn Nghệ Tiền Phong”, đă chụp
cho Lê Hữu Mục một chiếc nón cối Vi Xi. Số
là Việt-Cộng trong nhiều trường-hợp đă
dùng mẫu-tự “i” thay thế mẫu-tự “y”, thí-dụ
“iêu thương” (cùng lúc với “f” thay thế
“ph”, thí-dụ: fố fường), nên Từ Chuyên kêu
gọi kư-giả Gàn Bát Sách “chống cái ông Mục nào
đó (tay sai của cộng-sản?) chỉ muốn đem
“i” ngắn vào văn-học hải-ngoại để
chia rẽ anh em trí-thức”, đồng-thời làm
một bài thơ trào-phúng ca-tụng “y” (i dài) với các
câu:
Bàn về “i” ngắn làm chi?
Làm trai ai chẳng muốn “y” cho dài?
Y dài th́... mới dai,
Mới mong tiếp cú thứ hai hầu bà!
Muốn yêu mà ngắn như gà,
“Gô ao” cái chắc, chả ra... chó ǵ!
Hỏi bà, bà muốn cái chi?
Muốn “yêu” th́ phải kéo “y” thật
dài...
If-
Sau đó, nhà biên-khảo Dương Đức Nhự không
những chỉ gián-tiếp bênh-vực Lê Hữu Mục mà
c̣n hô-hào đổi mới chữ Quốc-ngữ,
đưa ra nhiều đề-nghị rất độc-đáo,
thí-dụ: bỏ mẫu-tự “h” trong phụ-âm ghép
“ngh” thành ra “ng” để viết “nge”, “ngĩ
ngợi”, thay v́ “nghe”, “nghĩ-ngợi”; bỏ
mẫu-tự “h” trong phụ-âm ghép “gh” thành ra “g”
để viết “gen gét”, “gồ gề” thay cho
“ghen ghét”, “gồ ghề”; riêng mẫu-tự phụ-âm
“d” th́ bỏ hẳn để thay thế bằng “z”,
thí-dụ: “zễ-zàng”, “zu zương”; ngoài ra c̣n
viết dính những từ ghép, thí-dụ “ngengóng”, “zưluận”
thay cho “nghe ngóng”, “dư luận”, v.v... Cứ như Dương
Đức Nhự th́ chúng ta có thể viết lại
truyện Kiều như sau:
Trăm năm trong kơj người ta
Cữ tài, cữ mệnh... qéw là... gét nhăw
Trải kwa một kuạk bể zâu
Những d́aw trông thấj mà dăudớn ḷng
Lạ j́ bỉsắc tưfong
Trờj xenh kwen thój má hồng dénh gen
Kiaw thơm lần jở trứak dèn
Fongt́nh kổ lụk ḳn trẃan sử xenh...!!!
Ig- Nhà thơ Khang-Lang, sau khi xuất-bản thi-tập
“Tâm Thức Bừng Vỡ Tim Tôi”, đă liên-tục sáng-tác
và đăng nhiều bài thơ mới, với tên tác-giả
là Khang lang (chữ L không viết hoa và
không có dấu-nối giữa hai chữ ấy). Nếu có
một dấu nối giữa hai chữ (Khang-lang); hoặc
vẫn viết Khang lang (không có dấu-nối) mà sau
chữ lang là một dấu phẩy/phết ngắt đoạn,
hoặc là một dấu-chấm-dứt-câu, th́ đâu c̣n
có vấn-đề, khiến cho có bạn cắt-cớ
hỏi anh: trong câu “Tôi nghe tiếng Nhă ca hát vang lên
ở pḥng bên” th́ là tiếng (một người tên) Nhă
ca-hát” hay là “tiếng (nhà văn) Nhă-Ca hát?
Ih-
Từ thủ-đô Hoa-Thịnh-Đốn, cây bút Lưu
Nguyễn Đạt đă cho ra đời tam-nguyệt-san văn-học
nghệ-thuật biên-khảo “Cỏ Thơm”. Qua
nhiều số, mỗi số có đăng nhiều bài,
cả biên-khảo văn-học lẫn thơ, của anh,
người đọc không khỏi ngạc-nhiên khi
thấy dưới các bài viết văn xuôi th́ anh kư tên
là Lưu Nguyễn Đạt đường-hoàng, nhưng dưới
các bài thơ th́ tên anh trở thành Lưu Nguyễn Đhạt.
Cái chữ Đhạt ấy đă được in lên
mặt giấy đến hằng chục lần, dưới
thơ mà thôi, và cả ở trang mục-lục trong
phần liệt-kê tên các tác-giả của các bài thơ
có đăng bên trong. Đó là h́nh-thức mới lạ
của một chữ tên, c̣n nghĩa (hẳn là mới
lạ) của nó th́ chúng tôi chưa thấy
chủ-nhiệm “Cỏ Thơm” giải-thích thế nào.
Ii-
Trên báo “Đại Nghĩa” xuất-bản tại San Jose,
ông Huỳnh Văn Trang đưa ra ư-kiến thay chữ
“Giê” thành chữ “Gê”, thí-dụ “Bẹc Giê,
Giẻ Lau, Gien di-truyền” th́ viết thành “Bẹc Gê,
Gẻ Lau, Gen di-truyền”. Điều đặc-biệt là
ông Trang chỉ mới đề-nghị mà tưởng như
đă bị phản-bác rồi nên ông biện-căi rất
hăng, thí-dụ “sai! ố là là!”, “xi cà goe”!
Ij-
Ông Nguyễn Phước Đáng trong cuốn sách “Tiếng
Việt & Chữ Việt” xuất-bản năm 2001
đă đề-nghị dùng “z” thay “d”, “d” thay “đ”,
“f” thay “ph”, “j” thay “gi”, “q” thay “qu”, “g”
thay “gh”, “ng” thay “ngh”, và in luôn một số
“chuyện tầm ruồng” dày 120 trang, áp-dụng các
đề-nghị ấy. Chúng tôi có viết bài góp ư,
đặc-biệt về việc dùng “j” thay cho “gi” th́
chúng tôi không đồng-ư, v́ “âm j mà thay âm gi th́ chưa
được sát, thí dụ: làm sao phân biệt giữa
hai tiếng/chữ dị-tự dị-âm sau đây, mà NPĐ
cho là dị-tự đồng-âm: jabber/yabber, jack/yack,
jam/yam, jap/yap, jaw/yaw, jeer/year, jell/yell, jerk/yerk, jester/yester,
jet/yet, Jew/yew, jo/yo, job/yob, joke/yoke, John/yon, v.v... (huống ǵ
chúng lại dị-nghĩa: tiếng Anh mà phát-âm sai
một ly là nghĩa của nó sẽ đi một dặm).”
(Bài của chúng tôi đề-cập nhiều vấn-đề
khác nữa, đă được ông NPĐ in vào cuốn sách
kế-tiếp của ông, nhan-đề “Quốc Ngữ Lưu
Vong”, ấn-hành năm 2002).
Ik-
Lúc chúng tôi viết bài này, cuối năm 2004, trên
nhiều diễn-đàn liên-mạng có ông Matthew Trần
đang bị nhiều người chống-đối v́,
ngoài việc dùng “z”, “d”, “f” thay cho “d”, “đ”,
“ph” (giống ư ông Nguyễn Phước Đáng nói trên, và
nhiều người trước nữa), ông c̣n dùng
dấu ngă trên tất cả các chữ vốn có dấu
hỏi. Theo
văn-phạm (ngữ-pháp) th́ một bài-viết (dù ngắn
như một câu, hay dài như một bộ sách,
thường gồm 2 phần: lời của tác-giả,
và lời của [các] nhân-vật được tác-giả
đề-cập. Riêng
về lời-nói của [các] nhân-vật, các lời-nói
đó được thể-hiện theo 2 cách: Một,
là chép đúng nguyên-văn lời-nói đó và đặt
nó trong ngoặc-kép, tức là lời-nói
trực-tiếp (direct speech; thí-dụ: Nàng
nói với
tôi rằng
“Em yêu
anh.”)
Hai, là thuật lại
lời-nói đó theo cách kể chuyện chủ-quan
(với bút-pháp/văn-phong riêng) của ḿnh, cốt
giữ cái ư, không cần giữ đúng các từ, không
cần
đặt
trong ngoặc-kép,
tức
là lời-nói gián-tiếp (indirect speech; thí-dụ: Nàng
nói với
tôi rằng
nàng yêu tôi.) Tức là các
bài-viết của Matthew Trần (gồm cả lời
của tác-giả lẫn lời của các nhân-vật,
đều thuộc dạng “lời-nói trực-tiếp”:
người-đọc
chỉ đọc lời-nói trực-tiếp của
chính Matthew Trần theo thổ-ngữ Huế và giọng-nói
Huế, nên khó hiểu đối với
nhiều
người chưa quen tiếng Huế.
II/
VỀ NỘI-DUNG:
2a-
Động-từ “quang-phục”, bắt nguồn từ tên
của tổ-chức “Việt-Nam Quang-Phục Hội”
của cụ Phan Bội Châu, rơ-ràng là có thêm ư-nghĩa
“trong vinh-quang, một cách quang-vinh”, mạnh hơn là
chỉ phục-hồi, phục-hưng suông, nay đă
phổ-biến khắp nơi có cộng-đồng
tị-nạn cộng-sản Việt Nam.
2b-
Danh-từ “đồng-chí” đă bị cộng-sản
dùng trước, dùng nhiều, đến nỗi nó có ư-nghĩa
là đồng-bọn cộng-sản với nhau, khiến
phe Quốc Gia cảm thấy gượng-ép khi dùng từ
ấy trong nội-bộ ḿnh, nên đă bắt đầu
dùng những từ mới: chí-hữu, chính-hữu,
cộng thêm với chiến-hữu đă có từ xưa.
2c- Ngoài những từ mới, như “đồng thuận”, “chính mạch” (để chỉ người dân chính gốc bản-xứ, thí-dụ người Mỹ chính mạch là người Mỹ 100%), chúng tôi ghi nhận danh-từ “Quốc Dân” mà luật-sư Phạm Nam Sách đă cố ư dùng với một ư nghĩa đặc-biệt (chính-nghĩa Quốc Dân, tinh-thần Quốc Dân...), không những thay thế cho “Quốc Gia”, “Dân Tộc”, mà c̣n nói lên một quan-điểm chính-trị mới, đó là “Đảng Quốc Dân”, “Sách Lược Quốc Dân”... (không có dấu-nối và tất cả đều viết hoa) do chính họ Phạm đề ra và không ngớt tuyên-xưng.
2d-
“Quốc Kháng”, một từ-ngữ mới, được
nhiều người dùng để chỉ Ngày 30/4/1975, có
một ư-nghĩa tích-cực hơn là “quốc-biến”,
“quốc-hận”, “quốc-nhục”...; v́ hận hay
nhục th́ ḿnh chỉ nhận vào ḿnh một cách thụ-động,
c̣n kháng th́ là ḿnh biến cái thụ-động ấy ra
thành hành-động chủ-động: đề-kháng,
phản-kháng, kháng-cự, kháng-chiến...
2e-
Động-từ “be bờ” đă có ghi trong tự-điển,
nhưng ít người dùng. Nay th́ nhân-vật Vơ Long
Triều ở Pháp độc-quyền sử-dụng. Trong
một bức thư không niêm đăng trên mặt báo,
họ Vơ đă hô hào mọi người be bờ ngăn
chận cộng-sản, be bờ cộng-sản
quốc-tế, lặp lại nhiều lần. Vậy là chúng
ta đều đang be bờ Việt Cộng.
2f-
Ngoài chiến-hữu, chí-hữu, và chính-hữu như
đă nói trên, vào ngày 16/08/1997, “Liên Đảng Việt Nam
Tự Do”, nhân dịp ra mắt đồng-bào tại Nam
California, đă cho ra đời một từ-ngữ
mới: các nhân-vật quan-trọng trong Đảng gọi
nhau là nghĩa-hữu.
2g-
Lâu nay người ta quen gọi những kẻ buôn gian bán
lận là gian-thương. Nay trên tạp-chí “Thế
Giới Mới”, phát-hành tại Texas vào đầu tháng
9/1997, trong bài “Thuư Đă Đi Rồi”, ông Đỗ Thái Nhiên lên
tiếng về vụ băng video Thúy Nga 40, đă dùng
danh-từ gian-doanh để chỉ những doanh-gia nào
“thiếu đạo-đức kinh-doanh”, đi chệch
ra ngoài con đường của giới lương-doanh.
2h-
Triết-gia Lương Kim Định, trong triết-thuyết
An Vi, đă dùng những từ-ngữ “Thiên Năng” (thay
v́ bản-năng) để dịch tiếng Instinct, và
tự đặt ra tiếng Anh Dual Unit để
diễn-tả Lưỡng Hợp và Man’s Lordship để
biểu-hiện Nhân Chủ theo thuyết của ḿnh.
2i-
Trong mục “Ngồi Buồn Găi Rốn” do nhà-báo Lăo
Ngoan Đồng phụ-trách trên “Ti Vi Tuần-san”
xuất-bản tại Úc vào cuối tháng 8/1997, Lăo Ngoan Đồng
đă gọi các Việt-kiều nào mà là cộng-sản
hoặc tay sai cộng-sản là “Việt cộng kiều”.
Âu cũng là một cách để phân-biệt với
Việt-Kiều quốc-gia.
2j-
Đồng-thời, trong “Lá Thư Luân Đôn” do kư-giả
Khải Minh phụ-trách, cũng trên “Ti-Vi Tuần san” nói
trên, cây-bút Trần Ngọc tường-thuật đại-hội
Văn Bút Quốc-Tế Edinburgh, đă có tựa đề
là Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại về lại tŕnh-trạng
tiềm ấu. Theo từ-điển Hán Việt của
Đào Duy Anh, “tiềm ấu” là ấu trĩ, non nớt,
trẻ con, một cách thầm giấu, không tỏ ra ngoài
(=tiềm-tàng ấu-trĩ). Hẳn chỉ nói về
một số nhân-vật nào đó liên-can đến
nội-vụ mà thôi.
2k- Từ-ngữ “áp-pháp” do Lê Xuân Nhuận
đưa ra, để dịch từ-ngữ “law
enforcement”: gọn-gàng và sát nghĩa hơn là “cơ-quan/nhân-viên
công-lực/thi-hành luật-pháp”.
2l- Thời-gian gần đây, động-từ
“hỗ-trợ” đă được nhiều người
sử-dụng, với ư “giúp-đỡ, trợ-giúp,
trợ-lực, tiếp tay, ủng-hộ, hưởng-ứng,
hậu-thuẫn, bảo-trợ” (kêu gọi người-khác giúp-đỡ ḿnh: một chiều mà thôi).
Theo
từ-điển, thí-dụ “Hán Việt Từ-Điển”
của Đào Duy Anh, th́ từ “hỗ-trợ” có nghĩa là “giúp đỡ
lẫn nhau” (hai chiều).
2m- Từ-đoạn “ra mắt sách/thơ/CD)” cũng
được thông-dụng. Nhưng, khi một chàng trai ra
mắt cha+mẹ cô gái, một nhân-vật ra mắt
cộng-đồng, th́ “ra mắt” đồng nghĩa
với “tŕnh-diện”, và không ai nói là cha+mẹ cô gái
phải ra mắt chàng trai ấy, hoặc cộng-đồng
phải ra mắt nhân-vật ấy. Thế th́ tại sao
lại bắt độc/khán/thính-giả phải ra
mắt cuốn sách, tập thơ, hay đĩa CD của tác-giả
XYZ (trong lúc tác-giả/Ban Tổ-Chức chỉ
giới-thiệu, hay tŕnh-mại tác-phẩm của ḿnh mà
thôi)?
2n- Có nhiều tiệm ăn quảng-cáo trên báo, trên
đài, rằng ḿnh “chuyên-trị”... phở Bắc, bún
ḅ Huế, hủ-tiếu Cần-Thơ. Có lẽ họ
dịch tiếng “specialize (in)” của Anh, vốn có nghĩa
là “chuyên-môn (về một việc ǵ); nổi tiếng (nhờ
một sản-phẩm nào); là chuyên-gia (về một khoa/môn
nào)” mà khi thí-dụ riêng về bác-sĩ th́ từ-điển
ghi là “chuyên trị (bệnh nào)” nên họ tưởng
là chuyên trị áp-dụng cho mọi ngành/nghề.
2o- Trong làng thơ có một giai-thoại: trong lúc ông
A khen bài thơ của thi-sĩ X là “tuyệt cú” th́ ông
B mỉa-mai “tuyệt cú... mèo ấy à! ” và thế
là từ-ngữ tuyệt cú mèo ra đời, nhưng để
chỉ cái dở mà thôi. Vậy mà có người vẫn
rao là món hàng của họ thật “tuyệt cú mèo”,
thậm-chí (thật t́nh) khen thơ của bạn ḿnh là
“tuyệt cú mèo”!
*
* *
III/
Ngoài ra, có một người đă lặng-lẽ “cải-mệnh
Anh là một người
khó tính trong việc dùng từ, thí-dụ anh đă phê-b́nh
một vài lời ca:
Trăng vui là lúc trăng chưa rụng,
Đă “rụng” th́ sao lại gọi “vui”?
(Ref: “Trăng rụng xuống cầu” trong bản nhạc cùng tên của Hoàng Thi Thơ)
“Xa một tầm tay”: c̣n với
được;
(Ngoài tầm tay với mới xa thôi!)
(Ref:
“Xa
một tầm tay” trong bản nhạc “Hương Xưa”
của Vũ Hoàng
Con tim: biểu-hiện t́nh chân thật,
Trao trọn người yêu, trọn nghiă ngh́;
Nếu thật yêu người và tự
trọng:
“Con tim” sao lại “để quên” đi?
(Ref: “Để quên con tim” trong bản nhạc cùng tên của Đức Huy)
Một
số thi+văn-hữu có yêu-cầu anh giải-thích
những từ mới lạ trong sách của anh, th́ anh tŕnh-bày:
*
“Thoạt
tiên, nhân lần đầu tiên xuất-bản tác-phẩm
tại Hải-Ngoại, tôi đă muốn làm một
lần một công hai việc, là vừa cống-hiến
độc-giả một nội-dung sách mới lạ,
vừa ra mắt công-chúng một h́nh-thức chữ
mới lạ. (Nhưng rồi, thể theo đề-nghị
của Ô. Vơ Thắng
Tiết, giám-đốc nhà xuất-bản Văn Nghệ
Tuy nhiên, trong cuốn “Về Vùng
Chiến-Tuyến” vẫn c̣n sót lại một số
từ-ngữ mà tôi xin giải-thích như sau.
3a) Về cấp-bậc: Tôi không đồng-ư, và cũng rất bất-măn, về việc (thí-dụ) một thiếu-tướng của ta là “tướng 2-sao” mà chỉ được gọi là “thiếu-tướng” nghĩa là ngang hàng với một viên “tướng 1-sao” của địch mà thôi. Cũng thế, một “tướng 3-sao” của ta th́ chỉ được gọi là trung-tướng, c̣n “tướng 3-sao” của địch th́ lại được gọi là “thượng-tướng” (theo nghĩa của ta th́ thượng-tướng c̣n cao hơn cả đại-tướng nữa: Hán-Việt Từ-Điển của Đào Duy Anh dịch “thượng-tướng” là “quan vơ cấp thứ nhất (généralissime)”, Tự-Điển Việt-Pháp của Đào Đăng Vỹ dịch “thượng-tướng” là “grand général”, Việt-Nam Tân Tự Điển của Thanh Nghị dịch “thượng-tướng” là “bậc cao nhất trong hàng tướng”)!
Tôi đă đề-nghị sửa lại danh-xưng, dựa theo thứ-bậc tuổi-tác (cấp-bậc nhà-binh tính theo cả tuổi đời lẫn tuổi lính), mà gọi:
Tướng 1-sao” của ta là “tráng-tướng” (tráng-niên), tuy nhỏ hơn trung-tướng (trung-niên) nhưng vừa thoát khỏi cái cảnh “đang c̣n chuẩn-bị (chuẩn-tướng) chứ chưa thực-thụ”, lại c̣n “chơi gác” phía địch, v́ địch chỉ là thiếu-tướng (thiếu-niên) mà ta đă là tráng-tướng (tráng-niên, lớn hơn);
Một “tướng 2-sao” của VC là trung-tướng, một “tướng 2-sao” cùa ta cũng là trung-tướng (trung-niên), không c̣n là thiếu-tướng (thiếu-niên);
Một “tướng 3-sao” cùa ta là “cao-tướng” (cao-niên);
Một “tướng 4-sao” của ta là “lăo-tướng” (lăo-niên);
Dụng-ư là: “tướng 3-sao” của địch tuy đă được gọi là “thượng-tướng” nhưng “tướng 3-sao” của ta không c̣n bị gọi là “trung-tướng” (thấp hơn) nữa, mà lại được gọi là “cao-tướng” (cao-niên lớn hơn trung-niên); dù “cao (tướng)” với “thượng (tướng) th́ cũng “cao thượng” như nhau, nhưng người ta nói “cao thượng” chứ không ai nói “thượng cao”, thành ra “cao tướng” của ta vẫn đứng ở trước, có phần lấn hơn “thượng-tướng” của địch. Về “tướng 4-sao” cũng thế, của địch th́ là “đại-tướng”, của ta th́ vừa là “lăo-tướng” (lăo-niên, cao hơn cao-niên tức “cao-tướng”và “thượng-tướng” 3-sao), vừa gồm cả ư “lăo-luyện” hơn tướng đồng-cấp ở bên đối-phương...
Và cứ như thế mà đổi mới xuống đến cấp binh nh́, để tránh cho các thế-hệ hậu-sinh, và người nước ngoài (qua các bản dịch) hiểu sai sự thật về ta.
Rốt cuộc, tôi đành tạm dùng những
từ đă quen đối với Việt-Nam Cộng-Ḥa,
nhưng phải chú thêm, thí-dụ: trung-tướng (của
ta) là tướng 3-sao, vân vân.
3b) Về chức-vụ: Ai cũng biết rằng nguời chỉ-huy của một đơn-vị là người lớn nhất về mặt chức-vụ trong đơn-vị ấy, c̣n những người khác trong cùng đơn-vị th́ dù chức-vụ có lớn bao nhiêu cũng chỉ tối-đa là Phó (Chỉ-Huy-Phó, Phó Chỉ-Huy) mà thôi, cho nên, nếu là đơn-vị cấp lớn, đứng đầu thường là cấp tướng, th́ người đứng kế trong đơn-vị ấy cũng được gọi hẳn là Phó (Tư-Lệnh-Phó, Phó Tư-Lệnh) rơ-ràng; do đó, đứng trên Tư-Lệnh-Phó hẳn là “Tư-Lệnh” (không cần thêm một chữ “Trưởng” để thành “Tư-Lệnh-Trưởng”), thế th́ đứng trên Chỉ-Huy-Phó hẳn là “Chỉ-Huy”, cần ǵ phải thêm một chữ “Trưởng” để thành “Chỉ-Huy-Trưởng”, trong lúc ta cần giản-dị-hóa chữ viết (và cả tiếng nói) để giúp cho trẻ nhỏ và người nước ngoài dễ học tiếng Việt-Nam hơn.
Cũng
thế, đă có Trưởng Ban, Trưởng Pḥng, Trưởng
Ty (không phải Ban-Trưởng, Pḥng-Trưởng, Ty-Trưởng),
tại sao chúng ta không có Trưởng Quận, Trưởng
Tỉnh, Trưởng Bộ, vừa để
thống-nhất về mặt cú-pháp, vừa để rút
ngắn câu văn (”Trưởng Ty Thông-Tin” gọn hơn
“Ty-Trưởng Ty Thông-Tin”)...
3c)
Về địa-danh: Cả một quốc-gia Việt-Nam
Cộng-Ḥa đầy thể-thống như thế mà ngoài
Sài-G̣n là một “đô-thành” ra th́ không có một nơi
nào được gọi là “thành-phố” (city) cả,
ngay đến Đà Nẵng quan-trọng bậc nh́ liền
sau thủ-đô mà cũng chỉ là một “thị-xă”
(town) mà thôi, trong lúc Việt-Cộng có nhiều “thành-phố”
ngoài Bắc (và sau này đă ban quy-chế “thành-phố”
cho nhiều thị-tứ trong Nam). Bởi thế, khi đề-cập
đến một số “thị-xă” cũ dưới
thời Việt-Nam Cộng-Ḥa mà v́ là những địa-phương
quan-trọng nên tôi đă dùng danh-xưng “thành-phố”
thay v́ “thị-xă”; ngoài ra, tôi cũng lược
bớt một chữ, thí-dụ: “Thành Đà-Lạt” (thay
v́ “Thành-Phố Đà-Lạt”), “Thị Vũng-Tàu” (thay
v́ “Thị-Xă Vũng Tàu”), cũng để cân xứng
với Tỉnh A, Quận B, v.v...
Đáng nói hơn hết là cấp Quân-Khu, đă được gọi là “Vùng Chiến-Thuật” (CTZ= Corps Tactical Zone= Vùng Chiến-Thuật cấp Quân-Đoàn), bên phía dân-chính gọi là Vùng (Vùng I cho đến Vùng IV). Mỗi Vùng Chiến-Thuật gồm nhiều “Khu Chiến-Thuật” (DTZ= Division Tactical Zone= Khu Chiến-Thuật cấp Sư-Đoàn), mà mỗi Khu Chiến-Thuật th́ bao gồm nhiều Tiểu-Khu (cấp Tỉnh). Như thế nghĩa là, nếu một Khu Chiến-Thuật (cấp Sư-Đoàn) bao gồm một Liên-Tiểu-Khu/Liên-Tỉnh [thí-dụ] 3 Tiểu-Khu (3 Tỉnh), th́ một Vùng Chiến-Thuật (cấp Quân-Đoàn/Quân-Khu) bao gồm nhiều Khu Chiến-Thuật (cấp Sư-Đoàn/Liên-Tỉnh) hơn, phải bao gồm ít nhất (thí-dụ) 6 Tiểu-Khu (Tỉnh). Thế mà, sau khi “cải-tổ hành-chánh” Trung-Ương đă gọi mỗi Vùng bên phía dân-sự (bao gồm lănh-thổ của một Quân-Khu/Quân-Đoàn) là một Khu (Khu I cho đến Khu IV) tức là “hạ bệ” mỗi Vùng hành-chánh (đáng lẽ ngang hàng với cấp Quân-Khu/Quân-Đoàn) xuống c̣n ngang hàng với cấp Khu Chiến-Thuật (cấp Sư-Đoàn)!
(Lê Xuân Nhuận đă
gom chuyện này với nhiều chuyện khác tương-tự
để gửi thư tham-luận lên Trung-Ương,
gọi đó là “quân-phiệt” – và trong các bài-viết của ḿnh vẫn gọi
các “Khu” là “Vùng” (Vùng I, Vùng II
chẳng hạn.)
3d)
Về ư-kiến của một số báo-chí đối
với các chữ đổi mới
(cải-mệnh)
của
Lê Xuân
Nhuận:
a/
Nhật-báo “Người Việt” ở
Nam California, trong khi nhận xét
“tác-giả đă tự-động sáng-chế nhiều
danh-từ”, đă không đồng ư với việc tôi
“gọi cảnh-sát là cảnh-nhân”. Như thế
tức là người viết bài ấy không phân-biệt
được sự khác nhau giữa một ngành nghề
với một người tham-gia ngành nghề ấy. Lấy quân-đội làm thí-dụ: quân-đội là
một tổ-chức, không thể gọi một người
lính là một quân-đội được, mà phải
gọi là “nhân-viên của quân-đội” tức “quân-nhân”
(người của quân-lực); cho nên, cảnh-sát là
một cơ-quan, không thể gọi một viên-chức
cảnh-sát là một cảnh-sát, mà phải gọi là
“nhân-viên cảnh-sát” tức “người của cơ-quan
cảnh-sát”, là “cảnh-nhân”, v.v... Chúng ta đă có “quân-nhân”, “chinh-nhân”,
“chủ-nhân”, “công-nhân”, “chính-nhân”, “pháp-nhân”,
“quan-nhân”, “thương-nhân”, “doanh-nhân”, “nam-nhân”,
“nữ-nhân”, v.v...; vậy th́, đă gọi được
người của quân-lực là “quân-nhân”, người
của giới làm công là “công-nhân”, tại sao lại
không gọi được người của
cảnh-lực là “cảnh-nhân”? C̣n việc “tự-động
sáng-chế” th́ chính ở phần mở đầu
của mục “Văn Học Nghệ-Thuật” trong đó
có đăng đoạn điểm sách trên, “Người
Việt” cũng đă đề-cao sự “cởi
mở”, “không có gánh nặng quá-khứ chồng
chất trên lưng”. Cứ “bổn cũ soạn
lại”, không chịu “sáng chế”, tôi cho như
thế mới là cam chịu “gánh nặng quá-khứ” trên
lưng.
b/
Trong lúc tạp-chí “Thế-Giới Mới” ở
Texas đă
giới-thiệu “Về Vùng Chiến-Tuyến” của tôi
là “tài-liệu quư giá”, “khá đầy đủ cho
độc-giả thích nghiên-cứu tổng-quát về
cuộc chiến Việt-Nam”, th́ tạp-chí “Văn
Học” ở
Nam California, sau khi cũng xác-định là sách ấy
“cung-cấp thêm tài-liệu để bạn đọc
hiểu nội-t́nh chính-trị Miền Nam thời bấy
giờ, đặc-biệt là những ǵ liên-quan tới các
nhân-vật cao-cấp của chính-quyền Miền Nam”,
đă lưu ư về “cách dùng chữ khác thường
của tác-giả” qua việc thay thế “cảnh-sát”
bằng “cảnh-lực”. Người viết bài ấy
không biết là cảnh-sát Việt-Nam Cộng-Ḥa hồi
ấy đă được tổ-chức thành Lực-Lượng
Cảnh-Sát Quốc-Gia. Lực-Lượng Quân-Đội là
“Quân-Lực”, và Lực-Lượng Cảnh-Sát là “Cảnh-Lực”;
đó không phải là do tôi dùng chữ “khác thường”
mà là dựa vào thực-tế: từ trung-ương
xuống đến các địa-phương đă có
mỗi nơi ít nhất là hai bộ-phận mang tên “cảnh-lực”:
đó là “Trung-Tâm Hành-Quân Cảnh-Lực”, mà ở
cấp trung-ương th́ Tư-Lệnh và các phụ-tá thường ra thuyết-tŕnh trước
Tổng-Thống, Thủ-Tướng, Quốc-Hội, và
cả Bộ Tổng Tham-Mưu nữa; và Nha “An-Ninh
Cảnh-Lực” cấp quốc-gia, Sở ANCL cấp Vùng,
Pḥng ANCL cấp Tỉnh/Thị, v.v... Không lẽ chúng ta
“noi gương” Việt-Cộng: gọi là
Cộng-Sản Việt-Nam th́ được, mà gọi là
Việt-Cộng th́ không? (Gọi là Lực-Lượng Cảnh-Sát th́ được mà gọi là Cảnh-Lực
th́ không?)...”
*
* *
Chúng
tôi chưa đúc kết hết được ư-kiến
chung về các ước muốn và thể-hiện canh-tân
chữ Việt kể trên, nhưng trên b́nh-diện
tổng-quát th́ cũng tán-đồng quan-điểm
của nhà văn Nguyễn Sĩ Tế: “Người
viết truyện mới không nên quá e-dè với hai
cuốn tự-điển và ngữ-pháp...”, và “... xin
nhớ rằng, tới một chừng mực nào đó,
người viết truyện có quyền rời bỏ
những cú-pháp cũ mèm mà đưa ra một lối hành-văn
phá cách, độc-đáo của riêng ḿnh. Bởi lẽ
ngôn-ngữ là cái quyền và cái dụng của mỗi người...”.
Vâng, ngôn-ngữ là một ước-lệ; chữ viết ban đầu chỉ là một ước-hiệu, nhưng phải chờ đợi sau khi đă được số đông thử-nghiệm, sàng lọc và chấp-nhận, nó mới trở thành quy-ước theo lệ thường.
Tất-nhiên không phải đề-nghị nào rồi cũng đều sẽ được thông-qua; nhưng trong tinh-thần cầu-tiến, nếu chỉ v́ ḷng câu-chấp mà muốn d́m đạp ngăn trở những sáng-kiến này, phát-minh kia, th́ quả là quá hẹp-ḥi; v́, ai biết đâu, trái đất quay quanh, cuộc sống đổi dời, “tonight” trở thành “tonite”, “plough” trở thành “plow”, “for you” trở thành “4U”, ngay đến chữ “Trời” ngày nay th́ cũng chỉ là một dạng chữ mới của chữ “Blời” ngày xưa mà thôi...
NGƯỜI THƠ