BỤI ĐẤT VÀ HƯ-VÔ
Trưa ngày 25 tháng 12 năm 1974, tôi đang cùng với bạn-bè dự một bữa ăn nhân dịp Nô-En tại nhà của một thuộc-viên th́ được Sĩ-Quan Trực từ Pḥng T́nh-H́nh gọi máy đến báo-cáo một tin-tức khác thường.
Vào khoảng 11g30 vừa rồi, có một chiếc trực-thăng đáp xuống cạnh Trường Tiểu-Học Xă Lộc-Mỹ, thuộc Quận Đại-Lộc, Tỉnh Quảng-Nam. Từ trên phi-cơ bước xuống một thiếu-tướng và một trung-tá Việt-Nam Cộng-Ḥa, cùng với một người đàn-ông và một người đàn-bà Hoa-Kỳ. Người đàn-ông có mang theo một cái hộp trên tay.
Viên trung-tá vào trường, dẫn bác Cai Trường ra, giới-thiệu với mấy người kia; rồi bác Cai Trường vào trong mang ra một cái xẻng, theo sự chỉ-dẫn của hai người Mỹ, đào một cái lỗ, ngay giữa hàng-rào phân chia khoảng sân bên hông trường ấy với con đường hương-lộ bên ngoài, chôn xuống đó cái hộp từ tay của người đàn-ông Hoa-Kỳ, lấp đất lại, rồi xóa sạch dấu đất mới, để chỗ đó trông giống b́nh-thường như không có việc ǵ xảy ra.
Xong, bốn người kia trở lên
trực-thăng bay đi, và bác Cai Trường vào trường.
Mọi
việc xảy ra mau lẹ như đă được
sắp-đặt từ trước rồi.
Lúc
chôn cái hộp là vào khoảng 12 giờ trưa.
*
Tôi
đoán là có cái ǵ bí-mật, mà nhà chức-trách địa-phương
giấu kín, hoặc không biết rơ nên Sở Đặc-Cảnh
Tỉnh
Quảng-Nam chỉ báo-cáo đơn-giản
thế thôi. Cho nên, do ṭ-ṃ
nghề-nghiệp, tôi về nhà sớm và bắt tay vào
việc ngay.
Sau
khi gọi điện-thoại hỏi
Trung-Tâm Hành-Quân
thuộc Sư-Đoàn I Không-Quân và Văn-Pḥng Bộ Tư-Lệnh
Quân-Khu I, tôi tổ-chức một chuyến đi vào
Quảng-Nam quan-sát
tại chỗ, đồng-thời tiếp-xúc với các
mật-viên quanh vùng, để biết thêm chi-tiết
về vụ này...
*
Bác Nam thanh-minh:
–
Tôi cứ tưởng là chỉ cần báo-cáo những ǵ
liên-can đến cộng-sản mà thôi, c̣n đây là
vấn-đề t́nh-cảm cá-nhân mà các người
trong cuộc đă yêu-cầu tôi giữ kín giùm...
Thiếu-Tá
Sơn đỡ lời tôi:
–
Không ai trách-móc bác đâu. Bác
hăy kể chuyện về người
Mỹ
tên
Sam
đi.
Bác
Nam kể:
–
Đầu năm
1971, Toán Dân-Sự-Vụ của Thủy-Quân
Lục-Chiến
Hoa-Kỳ hoạt-động tại
Quận
Đại-Lộc thay đổi cấp chỉ-huy.
“Người
mới đến là Đại-Úy
Sam, một thanh-niên
đẹp trai, hiền-lành, nhă-nhặn, b́nh-dân. Anh rất lanh-lợi và có nhiều sáng-kiến
hay.
“Công-tác
nổi bật đầu tiên là anh thành-lập một
Hội Việt-Mỹ
cho Quận
Đại-Lộc. Anh
chịu khó đi thuyết-phục để mời vào
Hội không những chỉ các viên-chức chính-quyền
như Quận-Trưởng, Phó Quận-Trưởng,
Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực, Trưởng Chi Thông-Tin, Trưởng
Pḥng Văn-Hóa Giáo-Dục, Hiệu-Trưởng Trường
Trung-Học, các sĩ-quan thuộc Chi-Khu, Xă-Trưởng,
giáo-sư, giáo-viên, phụ-huynh học-sinh, học-sinh tiểu+trung-học,
v.v... như thường-lệ, mà anh c̣n mời cả các
thương-gia, nông-dân, tài-xa, tài-công, lâm-dân, ngư-dân,
v.v... cùng với một số tu-sĩ Phật-Giáo trong vùng.
“Với
Hội Việt-Mỹ
của
Sam, sinh-hoạt ở đây sinh-động
hẳn lên. Hội-viên
gồm mọi tầng-lớp xă-hội.
Sách+ báo từ phía
Hoa-Kỳ phân-phát,
phổ-cập hầu như đến từng gia-đ́nh.
Hoạt-động không chỉ thu gọn trong các
kỳ họp, mà c̣n thể-hiện qua bất-cứ cơ-hội
nào có người
Mỹ xuất-hiện trong làng xóm
Việt-Nam.
“Sam
đề-nghị, và được phía
Việt-Nam đồng-ư,
dùng pḥng học của Lớp Năm trường tiểu-học
Lộc Mỹ này làm
nơi trao-đổi văn-hóa, dạy tiếng
Anh vào
buổi tối, v́ nơi đây thuận-tiện cho
sự đi lại của mọi người.
“Pḥng
này nằm ở đầu dăy, bên hông có một cửa
sổ nh́n ra hàng-rào che khuất tầm mắt của người
qua đường. Phía bên kia đường, các ông
thấy đấy, có một cây đa cành lá sum-suê,
rễ ở gốc cây cao hơn mặt đất, người
nào vóc cao mà đứng lên trên đám rễ, tựa vào
gốc cây nh́n vào cửa-sổ th́ trông thấy mặt
cô giáo rơ-ràng.
“Giáo-viên
Lớp Năm là cô
Diệu-Hương, hoa-khôi toàn
Quận, năm ấy vào khoảng hai mươi,
dịu-dàng, lễ-phép, đứng-đắn, siêng-năng.
“Pḥng
học Lớp Năm trước kia là nơi cô đến
soạn bài, chấm bài cho học-sinh, và tự học thêm
chương-tŕnh đại-học vào các ngày nghỉ và
mỗi buổi tối, th́ nay c̣n là nơi cô đến
làm công-việc của Hội với tư-cách thư-kư,
học tiếng
Anh, dạy tiếng
Việt cho ngưới
Mỹ, giúp chiếu phim, điều-khiển máy ghi-âm,
v.v...
“Cha
mẹ cô thuộc giới trung-nông, sùng
Đạo Phật và
chịu ảnh-hưởng
Đạo Nho.
“Sự
giao-tiếp giữa cô với Sam, trong khung-cảnh chung
của sự tiếp-xúc giữa hai bên Việt-Mỹ,
có bắt tay, có vỗ vai, nhất là giữa đàn-bà
con-gái
Việt Nam với đàn-ông
Hoa-Kỳ, bề ngoài
là chuyện tự-nhiên, nhưng cha+mẹ cô rất lo, nên
đă nhờ tôi theo dơi, ngăn ngừa giùm, sợ đi
quá xa.
“Tôi
là Cai Trường, làm liên-lạc-viên của Hội, vừa sắp dọn
rồi cất dẹp mọi thứ trước và sau
mỗi buổi, vừa tham-dự học tiếng
Anh và
dạy tiếng
Việt, nên tôi có mặt hầu hết
mọi lần
Sam và
Diệu-Hương gặp nhau.
Và tôi đă thấy ngay một mối t́nh trai+gái
chớm nở giữa hai người, ngày càng sâu
nặng hơn.
“Quả
thật là tôi đă có đồng-lơa với hai người.
“Thứ
nhất là v́ tôi thấy Đại-Úy
Sam thật t́nh yêu
Diệu-Hương, muốn xây-dựng lâu dài.
Anh đi lễ chùa vào rằm, mồng một âm-lịch,
t́m hiểu
Đạo Phật, học hỏi phong-tục
tập-quán
Việt-Nam. Anh
biếu quà và tham-gia mọi cuộc vui với trẻ em vào
các dịp cuối tuần, nghỉ hè, Trung Thu.
Anh đưa Y-Tế
Mỹ đi săn-sóc từng
cụ già, cứu-trợ từng nạn-nhân bị
Việt-Cộng pháo-kích, giật ḿn.
Anh giúp lợp nhà, sửa đường, đào mương,
tích-cực hơn cả cán-bộ của ḿnh. Dân-chúng
nhờ anh rất nhiều.
“Mà
điều quan-trọng là anh trân-trọng người yêu,
không hề sỗ-sàng bậy-bạ như đa-số người
Mỹ khác. Sam nói riêng
với tôi là anh sẽ xin chính-thức cưới
Diệu-Hương. Tôi
biết là có nhiều cô-gái Việt-Nam lấy chồng
Mỹ đường-hoàng, nên tôi yên tâm.
“Thứ
nữa là v́ tôi nghĩ: nếu cho cha+mẹ cô biết th́
chắc ông+bà sẽ cấm hẳn cô tới+lui với
Hội Việt-Mỹ;
mà không có cô th́ Hội tất-nhiên sẽ tan, v́ anh
sẽ dời Hội đi nơi khác, tôi mất việc
làm với đồng lương cao và tiền lời bán
đồ giải-khát, bánh, kẹo, cháo, chè mỗi đêm.
“Măi
đến hôm nay, giữ đúng lời hứa với
hai người trong cuộc, tôi vẫn chưa kể cho
cha+mẹ cô biết về mối t́nh giữa hai người.
“Huống
chi Đại-Úy
Sam th́ đă về nước từ sau
Nô-En năm ấy, và cô
Diệu-Hương th́ cũng
đă bỏ đi đâu biệt-tích từ sau
Nô-En năm
ngoái,
1973...”
–
Từ khi
Sam
rời
Việt-Nam, đến khi
Diệu-Hương
đi biệt, là hai năm trời, hai người có c̣n
liên-lạc với nhau hay không?
Đời sống t́nh-cảm của cô thế nào?
–
Anh vẫn gửi thư đều-đặn, hàng tháng, cho cô, qua tôi;
tôi đều chuyển lại tận tay; nhưng cô nói
là cô không trả lời. Tôi
không được biết trong thư anh nói những ǵ.
“Có
nhiều thanh-niên
Việt-Nam cũng như vài ba người
Mỹ có vẻ săn đón cô hơn, nhưng cô đối
xử với họ bề ngoài tự-nhiên như đối
với
Sam trước kia, chứ không có ǵ khác hơn.
“Cuối
năm
1972 th́ cô đổi về dạy ở
Tam-Kỳ,
thuộc Tỉnh
Quảng-Tín; cuối tuần về nhà
thường ghé thăm tôi.
“Tôi
hiểu là cô rất buồn, ít nói hơn, da xanh hơn...
“Đây
là bức thư của cô đă viết cho
Sam vào
dịp
Nô-En năm ngoái. Cô
không gửi nó qua
Mỹ mà lại nhờ tôi cất
giữ như một bằng-chứng hoặc một
di-vật lưu lại cho
Sam; tôi không mở xem.
Cô đă dặn tôi: nếu đến hết ngày
Nô-En
năm nay, tức là 12 giờ khuya hôm nay, mà
Sam vẫn không
trở lại gặp cô, th́ xin tôi hăy giải giùm
lời thề, bằng cách đốt nó ở gốc cây
đa, là nơi anh đă đứng đó nhiều
lần hướng về cửa sổ say-đắm nh́n
vào...”
*
Lộc-Mỹ,
ngày 25/12/1973
Anh
Sam yêu-dấu,
Đây
là bức thư đầu tiên mà cũng là bức thư
cuối cùng em gửi anh, người đàn-ông đầu
tiên mà cũng là người đàn-ông cuối cùng trong
đời em. Nội-dung
chỉ là EM YÊU ANH. Nhưng vấn-đề không chỉ
đơn-giản như ba tiếng “em yêu anh”.
Anh
là người Mỹ học-thức, giàu-có,
mạnh-khỏe, trẻ-trung, can-đảm, cần-cù, nhân-ái,
vị-tha, hào-pḥng, tự-do.
Những quân-nhân như anh, ngoài các
cuộc hành-quân c̣n dành thêm tâm-trí, công-sức và th́-giờ
để làm công-tác xă-hội giúp ích cho người
xung quanh, thật là hiếm-hoi. Trong cương-vị của anh, anh xứng-đáng
tiêu-biểu cho một dân-tộc hùng-cường, nghĩa-hiệp,
vượt vạn dặm trùng-dương đến
đây hy-sinh xương máu để bảo-vệ,
kiến-thiết, và phát-triển Việt-Nam nghèo-yếu
khổ-nạn quê-hương em.
Anh
là một thanh-niên lịch-thiệp, nói theo các bạn em
là “con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai”, yêu
đời, yêu người, biết kính già quư trẻ,
biết tôn-trọng những giá-trị tinh-thần,
nhất là tôn-trọng người ḿnh yêu.
Anh
đă cho em biết thế nào là mănh-lực ái-t́nh,
thế nào là t́nh yêu không phân chia chủng-tộc, màu da.
Anh vừa lăng-mạn phác-họa một cảnh gia-đ́nh
hạnh-phúc tràn-trề, vừa thực-tế dự-trù
sau khi xuất-ngũ sẽ tiếp-tục học lấy
bằng Master, lấy bằng Ph.D., dọn đường
cho sự-nghiệp tương-lai. Anh đặt
kế-hoạch cho tiền-đồ của cả hai chúng
ḿnh. “Anh đă cho em
Niềm Tin trong T́nh Yêu”...
Nhưng
v́ cha+mẹ em không chấp-nhận việc một người
con-gái Việt-Nam lấy chồng người nước
ngoài (em biết điều đó qua nhiều lần ông+bà
phê-b́nh người khác trước mặt em, và qua
lời ông+bà nói với bác Nam mà bác ấy kể
lại với em), nên em đành phải giấu-giếm
mọi người, trừ bác Nam mà em đă thú thật
sau này.
Yêu
nhau mà phải lén-lút, c̣n ǵ bực-bội và
xấu-hổ bằng!
Hy-vọng
duy-nhất của em là chờ đến ngày em hai mươi
mốt tuổi, là tuổi hợp-pháp tự ḿnh
quyết-định hôn-nhân của ḿnh; nhưng không
phải là để tự-do làm giấy hôn-thú với
anh, mà là để dễ thuyết-phục song-thân em
chấp-nhận mối t́nh của chúng ḿnh, v́ em không
thể làm một đứa con bất-hiếu –
bất-hiếu v́ làm trái ư cha+mẹ, bất-hiếu v́
làm cha mẹ mất mặt với mọi người.
Nhưng,
nếu ông+bà vẫn không đồng-ư th́ sao?
Đó là điều mà em không dám giải đáp, v́
chỉ nghĩ đến là em đă thấy sợ
rồi.
Đùng
một cái, anh được lệnh hồi-hương.
Một việc b́nh-thường mà thời-gian qua
đắm ch́m trong t́nh yêu em không nghĩ đến.
Hết hạn tùng-quân th́ phải về thôi!
Tuy
thế, có lư nào chấm dứt mọi sự ngang đây
sao anh?
Nhưng
anh đă trấn-an em. Anh
hứa là sẽ t́m đủ mọi cách trở lại
Việt-Nam, dù với tư-cách quân-nhân hay nhân-viên dân-chính,
thường-dân.
Qua
năm 1972 th́ Hội Việt-Mỹ
dời đi nơi khác.
Em
sống xa anh, lại không c̣n gần những cảnh
sinh-hoạt thân quen do anh tạo nên và vẫn mang đậm
dấu ấn của anh, nên em cảm thấy cuộc
sống trống vắng, lạt-lẽo vô cùng, dù anh
vẫn gửi thư về đều đều; nên qua
Nô-En th́ em đă xin thuyên-chuyển về dạy ở
Tam-Kỳ.
Em
về Tam-Kỳ để gần căn-cứ Chu-Lai,
để được thấy các bạn anh nhiều hơn,
để đỡ nhớ anh hơn, và để càng
nhớ anh hơn.
Anh
yêu! Cuộc đời không chiều ḷng người.
Nô-En 1972 anh chưa trở lại được, nhưng
vẫn c̣n nhiều hy-vọng, v́ chiến-tranh vẫn c̣n.
Nô-En 1973 anh không trở lại được, th́
đâu c̣n hy-vọng, v́ chiến-tranh không c̣n.
Phải chăng hy-vọng chỉ c̣n, t́nh yêu
của chúng ta chỉ c̣n, khi vẫn c̣n chiến-tranh,
cuộc chiến khốc-liệt mà chúng ḿnh muốn
sớm kết-thúc? Nhưng,
kết-thúc như thế nào, có phải là trong chia-ĺa,
mất-mát, đổ-vỡ, đau-thương không anh?
Nô-En
năm nay em có một quyết-định mới.
Em bỏ gia-đ́nh, em bỏ việc làm, em thử...
t́m về Hư-Vô, một cơi sắc-không không-sắc –
như anh đă có nghiên-cứu và nói là đă lĩnh-hội
được rồi –
v́ cuộc đời quả là bể khổ, oái-oăm
phi-lư quá, phải không anh? Cha+mẹ
em ép buộc em phải kết-hôn với một người
mà em không yêu. Thế là
em đă có lư-do để thoát-ly gia-đ́nh mà không làm
cho ai đổ lỗi cho anh.
Thời-hạn
ba năm của lời thề xưa vẫn c̣n.
Anh c̣n một năm để giải lời
thề trước cây đa làng cũ.
Anh c̣n một năm để thử-thách ḷng anh.
Em đă cố t́nh không viết một ḍng chữ
nào cho anh từ hai năm qua, trừ lời nhắn
miệng với các người bạn mà anh nhờ
gặp, rằng em trọn đời yêu anh và sẽ
trung-thành với anh, cốt để giúp anh
trắc-nghiệm t́nh anh. Nếu anh trở lại
được, th́ anh đi t́m em được; T́nh Yêu
sẽ hướng-dẫn anh.
Nếu anh không t́m ra em, mà anh vẫn muốn t́m em,
th́ đêm Nô-En 1974 em sẽ chờ anh ở Nhà Thờ năm
xưa; chậm lắm là vào 12 giờ khuya ngày 25, phút
cuối cùng của thời-gian thử-thách, em sẽ
chờ anh ở gốc cây đa.
Ở
gốc cây đa đó, em đă đón nhận nụ hôn
đầu tiên của người khác phái, em đă trao
anh nụ hôn đầu tiên của người con gái, là
lần đầu tiên em ngây-ngất mê-ly, là lần
đầu tiên em sẵn-sàng chết đi trong ṿng tay
siết chặt của người yêu. Ôi, nụ hôn
ngọt-ngào như lời thề-nguyền buổi sáng mùa
xuân cuộc đời, mà cũng là nụ hôn đắng-cay
mùi vị chia-ly chúng ḿnh dành cho nhau trước ngày anh
xa em.
Anh
không sợ ma, em không sợ ma, nhưng hầu hết
những người dân làng ở đây đều
sợ ma. Nhờ họ
sợ ma nên họ để yên cho chúng ḿnh gặp nhau
giữa khuya bên gốc cây đa nhiều đêm.
Những lần ấy, anh có biết đâu, em lo
sợ vô cùng: không phải là sợ có người
biết được mối t́nh mà chúng ḿnh giữ kín,
mà là sợ Việt-Cộng t́m cách ám-hại anh, v́ chúng
đă hơn một lần muốn nhờ tay em...
Bây
giờ th́ anh đă hiểu rồi đấy.
Nụ hôn biểu-hiện lời thề.
Đời em chỉ hôn một người; người
đó, trên đạo-lư, đă là chồng em.
Em
c̣n nhớ mấy câu Kinh Thánh mà anh đă giảng cho em:
“Không được thề dối!” và “Không
được phạm tội ngoại-t́nh!”; và:
“Hễ ai ly-dị vợ mà không phải v́ cớ
vợ ḿnh gian-dâm th́ tức là khiến cho nàng
ngoại-t́nh!” (Matthew 5:33, 27, 32)...
Em
không ngoại-t́nh, em không gian-dâm; em chỉ yêu một ḿnh
anh. Nếu không có anh th́
em sẽ là hư-vô, v́ đời trở nên hư-vô.
Đây
cũng là một cuộc thử-thách tối-trọng và
tối-hậu về phần em: do nơi anh, và do lời
hẹn của anh, em sẽ trở về sống với
hạnh-phúc trần-gian, hay sẽ tiếp-tục và vĩnh-viễn
trở thành sắc-không...
D.H.
*
–
Và đây là mười hai bức thư của
Sam;
Diệu-Hương không ghé lấy từ mười hai
tháng nay...
Trời
đă xế chiều. Tôi
tranh-thủ mở đọc bức thư mới
nhất của người thanh-niên đă từng
một thời là Đại-Úy
Sam:
New
York, December 1974
Diệu-Hương,
người yêu duy-nhất của anh:
Cả
ba năm nay em không viết thư cho anh.
Anh chấp-nhận, v́ đó là ư muốn của em
mà em đă nói cho anh biết trước rồi; nhưng
trong thâm-tâm anh bao giờ cũng mong ước và ngóng
chờ thư em.
Vậy
mà giờ đây th́ anh không c̣n trông đợi thư em
nữa, em biết v́ sao không?
Ngay
khi gặp em là anh yêu em. Đồng-thời,
sau khi đă ở Việt-Nam rồi, đă hiểu
Việt-Nam rồi, là anh yêu luôn Đất Nước và
đồng-bào em.
Anh
về Hoa-Kỳ không phải chỉ để vận-động
trở lại Việt-Nam với em mà thôi, mà là c̣n để
nói lên tiếng nói của lương-tri, chống
lại phong-trào phản-chiến, kêu gọi tinh-thần
khử-bạo phù-nguy vốn là truyền-thống cao-đẹp
của dân-tộc Hoa-Kỳ.
Thế
nhưng kết-quả ngược lại.
Ma-quỷ
đang hồi cực mạnh; người ta không nghe
tiếng nói thống-thiết của những con người
chính-trực như anh, thậm-chí bác đơn
thỉnh-cầu của anh xin được một
lần trở lại Việt-Nam.
Và
bây giờ th́ nước Mỹ đă bỏ cuộc
rồi.
Anh
c̣n mặt-mũi nào sống trên đời này mà làm người
thua cuộc, hả em? nhất là trong cuộc t́nh của
chúng ḿnh mà hạn chót của lời thề đă đến
rồi.
Trong
quá-khứ, nước Mỹ đă từng cứu Pháp,
giúp Đức, tiếp-trợ Âu-Tây, nâng Nhật-Bản,
vớt Đại-Hàn, che-chở Á-Đông.
Trong
tương-lai, nước Mỹ chắc-chắn sẽ c̣n
hành-hiệp cái-thế độ-nhân.
Nhất-định
mọi người sẽ phải xét lại thái-độ
yếu hèn của ngày hôm nay.
Riêng
đối với em, anh đă giữ tṛn danh-tiết cho
em.
Trong
đêm cuối cùng, bên gốc cây đa, em đă lịm
người trong ṿng tay anh, phó mặc hoàn-toàn cho anh. Nhưng
anh kính-trọng tinh-thần văn-hóa Đông-Phương...
Anh
sẽ không để cho ai biết ǵ về mối t́nh vô-vọng
của chúng ḿnh.
“Khối
t́nh mang xuống tuyền-đài khôn tan...”
Nếu
c̣n có thoáng chốc nào em nhớ đến anh, th́ xin em
hăy tin rằng, đến tận hơi thở cuối cùng
của cuộc đời ḿnh, anh vẫn chỉ biết
một ḷng yêu em.
T́nh
Yêu ấy là sinh-khí cho h́nh-hài này, vốn là bụi
đất và sẽ trở về với bụi đất
mà thôi.
Xin
cho linh-hồn anh được thanh-thoát, làm một
Romeo, một Trương Chi...
SAM
*
Thiếu-Tá
Sơn, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh sở-tại,
năy giờ ghé mắt cùng đọc theo tôi, phát-biểu:
–
Như thế là cô
Diệu-Hương
đă tái
xuất-hiện ở Nhà Thờ đêm qua, và sẽ có
mặt ở gốc cây đa đêm nay...
Tôi
nghĩ: “Đoạn
cuối câu chuyện không thuộc nhiệm-vụ của
ḿnh. Ḿnh chỉ t́m
biết xem cô là ai, lâu nay làm ǵ, ở đâu; thế thôi”.
Tôi
bắt tay từ-giă
Sơn:
–
Tất cả thư-từ, và những việc ǵ xảy
ra đêm nay, về sau, hoàn-toàn để tùy bác
Nam
giải-quyết. Bây
giờ th́ tôi phải về; c̣n nhờ anh
Ḥa
trong
Quảng-Ngăi, anh
Song trong
Quảng-Tín, và anh
Đảm ngoài
Thừa-Thiên, dĩ-nhiên là cả anh nữa, t́m xem cô
đang tu ở chùa nào...
*
Đà
Nẵng, ngày 25 tháng 12 năm
1974
PHIẾU TR̀NH
Kính
tŕnh...
tại
SÀI-G̉N
Tiếp
theo công-điện số...
Kính
xác-nhận điện-tŕnh sơ-khởi về việc...
Văn-Pḥng
Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu I xác-nhận chính Thiếu-Tướng
Hoàng Văn Lạc,
Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, thừa lệnh Cấp Trên, với
sự hướng-dẫn của trung-tá Quận-Trưởng Quận Đại-Lộc,
đă dùng trực-thăng đưa hai người
Mỹ liên-hệ đến Xă
Lộc-Mỹ trưa ngày
hôm nay, 25-12-1974.
Hai
người
Mỹ ấy là đại-diện của
một văn-pḥng Chưởng-Khế
Mỹ, thi-hành
di-chúc của một người tên
Sam.
Theo
di-chúc của Ông
Sam th́ sau khi ông tự-tử chết
đi, thi-hài được thiêu thành tro, đem đến
chôn ở hàng-rào của trường tiểu-học Xă
Lộc-Mỹ, thuộc Quận
Đại-Lộc, Tỉnh
Quảng-Nam,
Việt-Nam, ngay hướng mắt nh́n
từ gốc cây đa vào khung cửa sổ Lớp Năm,
giữa ngày
Nô-En năm nay...
Chúng
tôi đă đến tận nơi t́m hiểu, được
biết:
Nguyên...
*
Sáng sau, tôi đang đọc lại bản lưu
Phiếu Tŕnh nói trên th́ Sĩ-Quan Trực Pḥng T́nh-H́nh báo-cáo
rằng các Chánh Sở Đặc-Cảnh các Tỉnh đă có
mặt sẵn, đang chờ lệnh tôi trên máy điện-đàm.
Thiếu-Tá
Thái Văn Ḥa của Tỉnh
Quảng-Ngăi được
tôi hỏi trước, trả lời:
–
Ở Tỉnh
Quảng-Ngăi
có chùa
Thiên-Ấn
và nhiều
chùa khác, nhưng không có ni-cô nào giống với đối-tượng
cần t́m...
Thiếu-Tá
Đặng Văn Song, Chánh-Sở của Tỉnh
Quảng-Tín,
báo-cáo là chưa t́m ra.
Chánh-Sở
Trương Công Đảm của Tỉnh
Thừa-Thiên
liền xin xác-nhận:
–
Ngoài này chúng tôi đă t́m ra được cô rồi.
“Cô
ở ngay
Chùa Sư-Nữ nổi tiếng của
Miền Trung.
Tại đây, cô giấu lư-lịch; ngoại-trừ
Sư-Bà trụ-tŕ, c̣n với người khác th́ cô xưng
một tên khác, nhưng thường chỉ dùng pháp-danh mà
thôi. Cô không bao giờ
tiếp-xúc với người ngoài chùa.
Trước đây đă có nhiều người
từ trong
Đại-Lộc ra t́m, nhiều lần mà không
gặp được. Riêng ngày hôm kia, cô đă xin phép đi vào
Quảng-Nam thăm nhà...”
Tôi
cám ơn các anh, rồi hỏi Thiếu-Tá
Lâm Minh Sơn
của Tỉnh
Quảng-Nam t́nh-h́nh đêm qua thế nào.
Sơn
đáp:
–
Đêm qua, chúng tôi không thấy
Diệu-Hương
đến
gốc cây đa. Có lẽ cô đă nấp kín, cũng gần
đâu đó mà thôi. Nhưng không thấy
Sam
xuất-hiện th́ cô đến đó làm ǵ!
“C̣n
bác
Nam th́, vào lúc 12 giờ khuya, sau khi đốt xong
bức thư của cô ở gốc cây đa, đă chôn
luôn các bức thư của
Sam vào chỗ đă chôn cái
hộp mới được đưa đến từ
nửa ṿng trái đất bên kia...”
LÊ XUÂN NHUẬN