NGƯỜI VIỆT LÀM THƠ TIẾNG ANH

(THƠ SONG-NGỮ VIỆTANH)

                                            bài của Người Thơ  

*

            Chúng ta đă bước vào thiên-niên-kỷ thứ ba, và sống trong một thời-đại mà các sinh-hoạt chính của mỗi nước, và do đó của mỗi người, đều có chiều-hướng toàn-cầu-hóa, nói nôm-na là mở cửa để tiếp-thu từ toàn-cầu, đồng-thời dấn thân để ḥa-nhập vào toàn-cầu.

            Trong hoàn-cảnh đó, thơ là một trong các sinh-hoạt nói trên.  Bởi thế, đă có khá nhiều bài thơ, tập thơ, hợp/tuyển-tập thơ, của khá nhiều nhà thơ, từ tiếng nước ḿnh được dịch sang tiếng nước ngoài.

            Một trong những ngôn-ngữ thông-dụng nhất trên thế-giới hiện nay là tiếng Anh Cho nên, ngoài thơ của các tác-giả nói-tiếng-Anh (như Anh, , Úc, Canada,...) từ lâu đă có khá nhiều thơ của các người nước khác được dịch sang tiếng Anh.

            Trong thời-gian qua, Việt-Nam cũng đă bắt đầu giới-thiệu thơ của ḿnh với người nước khác, bằng cách sáng-tác trực-tiếp, hoặc phiên-dịch (hay chuyển-ngữ) từ tiếng Việt sang tiếng Anh.

            Có sáng-tác bằng tiếng Anh hay phiên-dịch qua tiếng Anh, th́ mới mong được người nước ngoài đọc đến, chia-sẻ với chúng ta những ǵ mỗi một nhà thơ, đại-diện phần nào cho dân-tộc Việt-Nam, tâm-hồn Việt-Nam, dù trong một hoàn-cảnh nhất-định, gửi-gắm trong từng vần điệu thi-ca.

*

            Sinh-hoạt thơ tiếng Anh của Người Việt Hải-Ngoại được thể-hiện qua hai ḍng chính:

            · thơ của các tác-giả ở trong nước Việt-Nam; và

            · thơ của các tác-giả định-cư/tị-nạn cộng-sản ở các nước nói-tiếng-Anh.

 

I

 

            Về ḍng thơ tiếng Anh của Việt-Nam quốc-nội, ta thấy hầu như chỉ là thơ phiên-dịch (hoặc chuyển-ngữ), chứ không phải là sáng-tác trực-tiếp bằng tiếng Anh.

            Hiện nay đă có một số thi-tuyển-tập (của nhiều tác-giả) và thi-tập (của một tác-giả), mà đáng chú í nhất là các ấn-phẩm do nhóm Nguyễn Bá Chung, thuộc Trường Đại-Học UMB (University of Massachusetts) ở Boston (USA) ấn-hành:

            MOUNTAIN AND RIVER” (Núi Sông, Sông Núi, hoặc Non Sông), do Kevin Bowen, Nguyễn Bá Chung, và Bruce Weigl, phiên-dịch (Thơ trong tuyển-tập này gồm có những bài được sáng-tác trong khoảng từ 1948 đến 1993, qua 2 cuộc chiến kháng Phápchống Mỹ, từ thơ của Hồ Chí Minh đến thơ của Nguyễn Quang Thiều), “SIX VIETNAMESE POETS” (6 nhà thơ Việt-Nam), gồm có Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Ư Nghi, Nguyễn Đức Mau, và Phạm Tiến Duật, mà tác-phẩm được viết trong thời-gian “chống Mỹ”, do Kevin BowenNguyễn Bá Chung chuyển-ngữ; “DEDICATED TO A DREAM”, “THE ADVENTURE OF THE PHOENIX”, chuyển-ngữ, của Lâm Thị Mỹ Dạ, chung với Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Dũng, và Anh Thơ, trong bộ American War and Post-War Poetry; “DISTANT ROAD” (Đường Xa), thơ của Nguyễn Duy, do Nguyễn Bá ChungBruce Weigl phiên-dịch; “THE WOMEN CARRY RIVER WATER” (Các Cô Gánh Nước), thơ của Nguyễn Quang Thiều, thuộc thế-hệ sau-1975, do Martha CollinsNguyễn Quang Thiều chuyển-ngữ.

            Nhóm Nguyễn Bá Chung cũng giới-thiệu các thi-sưu-tập: “VIETNAMESE POETRY FROM THE WARS” (Thơ Việt Qua Các Cuộc Chiến), “POEMS FROM CAPTURED DOCUMENTS” (Thơ Trong Tài-Liệu Địch), phiên-dịch những bài thơ lẫn-lộn trong các tài-liệu bắt được (của Cộng-Sản Việt-Nam?).

            Nguyễn Bá Chung và các nhân-vật liên-hệ đều thuộc Trung-Tâm William Joiner (WJC) của Trường Đại-Học UMB, là nhóm chủ-trương viết lại lí-lịch và vị-trí của Người Việt Tị-Nạn Cộng-Sản, mà lại thuê các nhà văn chịu ảnh-hưởng cộng-sản từ trong nước ra thực-hiện dự-án nói trên, nên bị cộng-đồng Người Việt Hải-Ngoại khắp nơi chống-đối quyết-liệt nhiều năm trước đây...

            Nói chung, các tập thơ tiếng Anh dịch từ thơ tiếng Việt ở trong nước đều được một số nhân-vật hay tổ-chức ở nước ngoài mà có thiện-cảm với Việt-Nam nội-địa phiên-dịch và ấn-hành.  Nội-dung tổng-quát là để đề-cao cộng-sản Việt-Nam, dù có những bài “vô thưởng, vô phạt” th́ cũng là để chứng-tỏ rằng công-việc sáng-tác hiện nay ở Việt-Nam đă được tự-do (?).

            (Nhân đây chúng tôi cũng kể thêm SPRING ESSENCE (Hương Xuân, tức Xuân Hương), gồm có một số bài thơ của nữ-sĩ Hồ Xuân Hương, do John Balaban, giáo-sư thi-sĩ người , ở North Carolina, giới-thiệu. Hồ Xuân Hương là của dân-tộc Việt-Nam, chứ không thuộc riêng hàng-ngũ của các nhà thơ hiện nay ở Việt-Nam; nhưng chúng tôi tạm kê vào đây để ghi nhận việc làm của thi-sĩ này, đă t́m-ṭi và trân-quư những vần thơ có giá-trị trường-cửu của Việt-Nam, một cách khách-quan và vô-tư, chứ không có hậu-í hay mưu-đồ ǵ như ai kia.)

            Điều đặc-biệt là tất cả các ấn-phẩm ấy đều đă được kí-nạp vào thư-viện Quốc-Hội Hoa-Ḱ, và một số thư-viện các trường đại-học ở và ở các nơi khác, do có chính-sách của nhà cầm quyền từ trong nước, hoặc chủ-trương của các giới-chức chuyên-môn liên-quan ở nước ngoài.

 

II

 

            Về ḍng thơ tiếng Anh của Người Việt Hải-Ngoại, ta thấy có hai nguồn song-song:

            · thơ trực-tiếp sáng-tác bằng tiếng Anh, và

            · thơ phiên-dịch hay chuyển-ngữ sang tiếng Anh.  

            Thơ trực-tiếp sáng-tác bằng tiếng Anh th́ được phổ-biến qua ba con đường: đăng-tải rời-rạc, in chung trong các tuyển-tập, và xuất-bản thành tập riêng.

            V́ là thơ sáng-tác bằng tiếng Anh, nên các tác-giả đă đi thẳng vào các tạp-chí thi-ca của , các diễn-đàn/nhà-mạng thi-ca của thực-hiện trên mạng lưới thông-tin toàn-cầu, các tuyển-tập thơ quốc-tế của , Anh; cũng như xuất-bản thành tập theo cung-cách của phương Tây.  

            Riêng thơ tiếng Anh đă được ấn-hành thành tập, th́ ta thấy có các tác-giả và dịch-giả cũng như tuyển-tập sau đây:

            Barbara Tran với thi-tập sáng-tácIN THE MYNAH BIRD’S OWN WORDS” xuất-bản ở Hoa-Ḱ năm 2002;

            Bright Quang với các thi-tập sáng-tácPOETRY AND ART” ấn-hành ở Redwood City, Bắc California (USA) năm 1998, “MY TORCH” (Ngọn Đuốc của Tôi) năm 2003;                            

            Christine Sa với thi-tập sáng-tácTHE PARTING YEAR” xuất-bản ở Toronto, Canada;

            Du Tử Lê với một số thi-tập: “Hoa Nào Tin QuẢ ĐẮng ĐẾn Không NgỜ / Flowers can’t believe fruits would grow that bitter do Như Hạnh, Nhan Chung chuyển-ngữ, xuất-bản ở năm 1999, TrUỜng KhÚc MẸ vỀ BiỂn ĐÔng/ Tributes to Mother on her way home via Pacific Ocean do Thiên Nhất PhươngTrần Lệ Khánh chuyển-ngữ, năm 2002, v.v...;  

            Đinh Linh với các thi-tập sáng-tác ALL AROUND WHAT EMPTIES OUT xuất-bản năm 2004, AMERICAN TATTS năm 2005, BORDERLESS BODIES năm 2006; 

            Đỗ Vinh [Joseph Đỗ Vinh Tài] với thi-tập sáng-tác Green Plums xuất-bản ở California (USA) năm 2005;

            FLOWERS OF LOVE / FLEURS D’AMOUR” (Cụm Hoa T́nh Yêu), tuyển-tập tam-ngữ Việt-Anh-Pháp, sáng-tác trực-tiếp lẫn chuyển-ngữ, Tập I (40 tác-giả), Tập II (45 tác-giả), Tập III (66 tác-giả); Tập IV (32 tác-giả); với các tác-giả tiếng Anh: Đ́nh Duy Phương, Doan Nam Nhan, Hoài Việt, Hoàng Hoa, Hồng Phương, Hương Nam, Kim Phuong Tran, Lê Khắc Lư, Lê Sỹ Đông, Lê Trọng Nghĩa, Le Van Ba, Lưu Hoài, Lưu Trần Nguyễn, Ly Châu, Như-Hoa, Nguyễn Phúc Sông Hương, Nguyễn Thị Sen Trắng, Nguyễn Thùy Linh, Paul Cao, Phạm Ngọc, Phạm Nhă Dự, Thanh-Thanh, Thu-Vân, Tina Thanh Hương, Trac Pham, Trần Tịnh Như, Tyna, Vinh Hồ,; với các dịch-giả: Ali Smaoui, Be Davison Herrera, Charles Nguyen, Christopher Vũ, Du Phước Long, Duy Tường, Đào Thanh Khiết, Elsie Whitlow Feliz, Hoài Việt, Huỳnh Sanh Thông, Joyce Odam, Lê Cao Phan, Lê Sỹ Đông, Ngọc Nguyệt, Ngô Đa Thiện, Nguyễn Đại Thanh, Nguyễn Đắc Khoa, Nguyễn Trọng B́nh, Nhă Dự, Như Hoa, Nhựt Nguyệt, Phạm Ngọc, Phạm Phan Thị Bạch Nga, Thanh-Thanh, Thu Vân, Trần Minh Hiền, Vo Tinh, Vơ Thị Xuân Hiệp, Vũ Đức Tô Châu, Vũ Lang, Ư Nga; do “Hội Thơ Tài-Tử Việt-Nam” của Như-Hoa Lê Quang Sinh ấn-hành, ở Sacramento, Bắc California (nay đă dời qua Dallas, Texas), USA;

            Hà Huyền Chi với tập thơ song-ngữ “SHARPENING THE SWORD ON THE SIDELINE” (Bên Trời Mài Kiếm) do Ngô Đ́nh Chương phiên-dịch, Đàm Trung Pháp hiệu-đính, ấn-loát ở Washington, và “The Best of Ha Huyen Chi do Binh Nhung phiên-dịch; xuất-bản ở Hoa-Ḱ;

            Hạ Ái Khanh với thi-tập SPEECHLESS (NGHẸN NGÀO) sáng-tác và tự chuyển-ngữ dưới bút-danh Dien Viet Duong [Dương Viết Điền], xuất-bản năm 1998;

            Hoa Nguyen với các thi-tập sáng-tác YOUR ANCIENT SEE THROUGH năm 2002, AS LONG AS TREES LAST xuất-bản tại Hoa-Ḱ năm 2012, HECATE LOCHIA năm 2012, RED JUICE năm 2014;

            Hoàng Du Thụy trong các tuyển-tập sáng-tác: A break In The Cloud xuất-bản năm 1993, và Dance On The Horizon năm 1994;

            Hoàng Ngọc Văn với thi-tập sáng-tác tự chuyển-ngữ CUỘC ĐỜI (ONE'S LIFE)” ra mắt tại San Jose, California (USA);  

            Huyền Chương Quư với tập thơ tự chuyển-ngữ “KHÁT VỌNG TỰ DO” (The War and The Americas in My Country); 

            Huỳnh Sanh Thông biên-khảo phiên-dịchAn Anthology Of Vietnamese Poems - From the Eleventh through the twentieth Centuries” xuất bản ở New Haven, Connecticut (USA) và London (Anh);   

            Joseph Do Vinh Tai với các tập thơ Mĩ-Việt sáng-tácchuyển-ngữ GREEN PLUMS (Đào Non) “APOLOGIES TO THE MOON” (Tạ Tội Cùng Trăng), do Broken-Heart Press ấn-hành năm 2008;  

            Khế Iêm với tác-phẩm Blank Verse (ThƠ KhÔng VẦn)” cùng Đỗ Vinh phiên-dịch ấn-hành ở California (USA) năm 2006;

            Kim Vũ với các thi-tập Việt-Anh sáng-táctự chuyển-ngữSUCH IS MY LOVE, SWEETHEART” (T́nh Anh Như Thế Đấy), WHEN I LOVE YOU” (Khi Yêu Em); và các tuyển-tập “VIETNAMESE POETRY: A SAMPLER” (Việt Nam: Những Áng Thơ Tuyệt Tác), “THE FINEST PIECES OF MODERN VIETNAMESE POETRY” (Những Áng Thơ Tuyệt Tác Hiện Đại) do Kim Vũ phiên-dịch, tự xuất-bản, ở San Jose, Bắc California, (USA);

            Lại Thanh Hà sáng-tácInside Out & Back Again” (Đi Rồi Lại Về) tiểu-thuyết bằng 121 bài thơ, xuất-bản năm 2011;

            Lê Phạm Lê với các thi-tập sáng-tácFROM WHERE THE WIND BLOWS” (Gió Thổi Phương Nào) và “WAVES BEYOND WAVES” ấn-hành ở San Francisco, Bắc California (USA);

            Lê Thị Thấm Vân (Lê Thị Hoàng Mai) với thi-tập sáng-tác Yellow Light xuất-bản năm 1998; 

            Lê Văn Tài với tuyển-tập sáng-tác Empty arms surrounded by warm breath ra mắt năm 1987;

            Linh Đinh (Đinh Hoàng Linh) với các tác-phẩm sáng-tácDRUNKARD BOXING” (Vơ Say) xuất-bản năm 1998, “A SMALL TRIUMPH OVER LASSITUDE”, “A GLASS OF WATER”, đều ở Philadelphia, Pennsylvania (USA), năm 2001;

            LOVE POEMS” (Thơ T́nh), tuyển-tập chuyển-ngữ, xuất-bản ở Nam California (USA);  

            Mai Nguyên với tuyển-tập-thơ sáng-tácphiên-dịch VAP” (?);

            Minh Viên với các thi-phẩm “THE UNHEALED WOUND” (Vết Thương Chưa Lành), “A NIGHTMARE WAR” (Cuộc Chiến Ác-Mộng), “BLUE RAIN” (Mưa Xanh), sáng-tác, ấn-hành ở San Francisco, Bắc California, Hoa-Ḱ, v.v...;

            Mộng Lan với thi-tập sáng-tác Song of the Cicadasxuất-bản ở Massachusetts (USA) năm 2001;

            Ngô Đ́nh Chương với “QUIET ALLEY IN THE EVENING” (Chiều Đêm Xóm Vắng), song-ngữ, do tác-giả sáng-tác và tự chuyển-ngữ, ấn-hành ở San Jose, Bắc California (USA);  

            Nguyễn Đỗ với hợp-tuyển-tập “THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI” cùng Paul Hoover chuyển-ngữ, do University of Iowa ấn-hành; 

            Nguyễn Mạnh Quang với “A POEM FOR MY CHILDREN” (Bài Thơ Cho Con) do tác-giả sáng-tác và tự chuyển-ngữ, xuất-bản ở Tacoma, Washington (USA);

            Nguyễn Phúc Sông Hương (Thái Luân) với “AMONG PEOPLE” (Giữa Những Con Người), sáng-tác trực-tiếp, xuất-bản ở Sacramento, Bắc California (USA) năm 1995;

            Như-Hoa Lê Quang Sinh với “THE OLD DAYS / LE VIEUX TEMPS” (Chuyện Ngày Xưa”), thi-tập tam-ngữ Việt-Anh-Pháp, với các dịch-giả: Duy Tường, Lê Sỹ Đông, Như Hoa, Thanh-Thanh, Thu Vân; do “Hội Thơ Tài-Tử Việt-Nam Quốc-Tế” xuất-bản, ở Sacramento, Bắc California (USA);

            Ngô Tằng Giao tự chuyển-ngữ các tập thơ “MƯA XUÂN” ấn-hành năm 2000, “HƯƠNG MÙA VU LAN” năm 2007;

            Nguyễn Chí Thiện với các tác-phẩm được Nguyễn Ngọc Bích phiên-dịch sang tiếng Anh: NGỤC CA / PRISON SONGS xuất-bản năm 1982, Hoa ĐỊa NgỤc / The Flowers of Hell năm 1996, HẠt MÁu ThƠ / Blood Seeds Become Poetry năm 1996;

            Nguyễn Hữu Lư đă chuyển-ngữ và cho ra đời các tác-phẩm: T̀NH MẸ TRONG THƠ VIỆT NAM: Collection of Poems on Motherly Love”, “QUÊ HƯƠNG QUA THI CA: Anthology of Homeland in Vietnamese Poetry and Songs”, “XUÂN VÀ TUỔI TRẺ VIỆT NAM: Anthology of Springs and Youth of Vietnam, do Nhóm Văn Hóa Pháp-ViệtParis giới-thiệu, và NHỮNG CON ĐƯỜNG LƯU VONG: Les Sentiers de l'Exile - The Paths of Exile, do Hội Thơ Tài Tử Việt Nam của Như Hoa phổ-biến;

            Nguyễn Ngọc Bích với các tác-phẩm biên-khảophiên-dịch: The poetry of Vietnam xuất-bản năm 1969, A thousand years of Vietnamese Poetry năm 1975, A mother’s Lullaby (“Trường Ca Lời Mẹ Ru của Trương Anh Thụy) năm 1989, The Flowers of Hell (“Hoa Địa Ngục của Nguyễn Chí Thiện) năm 1995, Blood Seeds Become Poetry (“Hạt Máu Thơ của Nguyễn Chí Thiện) năm 1996, v.v...;  

             Ocean Vương tức Đại Dương với các thi-tập sáng-tác BURNING xuất-bản năm 2010, NO năm 2013, NIGHT SKY WITH EXIT WOUNDS năm 2016, v.v...;

            Phan Nhiên Hạo với các thi-tập sáng-tác PARADISE OF PAPER BELLS xuất-bản năm 1998, MANUFACTURING POETRY năm 2004, v.v...;                       

            Song Hồ (Nguyen Thanh Dam) với Rock and Flower tự phiên-dịch từ “Đá và Hoa” (1992), xuất-bản năm 2000; 

            Thanh-Thanh (Nhuan Xuan Le) với POEMS BY SELECTED VIETNAMESE” do Xây-Dựng xuất-bản năm 2005, và Vietnamese Choice Poems” (tuyển-tập 146 bài thơ tiếng Anh, dịch từ nguyên-tác thơ tiếng Việt của 81 tác-giả hiện sống tại , Gia-Nă-Đại, Úc, Pháp, Đức, Bỉ, Na-Uy, Việt-Nam), là tập-hợp nhiều nhất số thi-sĩ và số bài dịch sang thơ Anh, do Nhà XlibrisIndiana (USA) xuất-bản năm 2013; được Nhà Tổng-Phát-Hành Amazon đưa vào danh-sách Favorite Books of the Year trong Mục Best Books of 2014;

            THE SILENCE OF YESTERDAY” (Sự Im-Lặng của Ngày Hôm Qua), song-ngữ, sáng-tác trực-tiếp lẫn chuyển-ngữ, của 22 tác-giả, với các tác-giả tiếng Anh: Ngô Đức Diễm, Ngô Đa Thiện, Nguyễn Phúc Sông Hương, Phạm Ngọc, Song Nhị, Thanh-Thanh, Ư Yên; với các dịch-giả: Hoài Vân Tử, Huỳnh Sanh Thông, Ngô Đa Thiện, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Phúc Sông Hương, Phạm Ngọc, Song Nhị, Thanh-Thanh, Thy Vũ, Vĩnh Sinh, Vi-Khuê, Vơ Đ́nh, Ư Yên; do “Cơ-Sở Thi Văn Cội Nguồn” của Song NhịDiên Nghị giới-thiệu, ấn-hành ở San Jose, Bắc California (USA);

            Thoai Q. Tran (Trần Quư Thoại) có các thi-tập sáng-tác: Random Thoughts xuất-bản năm 2000), Que sera năm 2001, Reflectionsnăm 2001;

            T̀NH YÊU, CUỘC SỐNG VÀ LƯU ĐÀY (LOVE, LIFE, and...) thơ Việt-Anh;

            Trang Đài Glassey-Trầnguyễn với 3 tập thơ: “ANH HOA” Anh-Việt tự chuyển-ngữ, ấn-hành ở Saigon năm 1967, tái-bản ở năm 2005; “MARS & VENUSsáng-tác, ở Hoa Ḱ năm 2001; “IN HARMONYsáng-tác, ở Hoa Ḱ năm 2008;

            Trần Mộng Tú với 2 bài thơ The Gift in Wartime (Quà Tặng Trong Chiến Tranh)Dream of Peace (Giấc Mơ Ḥa B́nh) do Vann Phan phiên-dịch sang Anh-ngữ; bài trước được in trong American Literature Textbook (sách giáo-khoa, của nhà xuất-bản Glencoe/Mc.Gnaw-Hill), bài sau được in trong Vision of War, Dream of Peace” là tuyển-tập thơ của các cựu Nữ Quân-Nhân và Y-Tá phục-vụ trong Chiến-Tranh Việt-Nam;  

            Trúc Lang [Vĩnh Đỗ] với thi-tập sáng-tácSEA AND SKY” do Ngày Nay xuất-bản năm 2005;

            Trương Anh Thụy với thi-tập song-ngữ GỬI MƯA CHO NẮNG tự chuyển-ngữ sang tiếng Anh;

            Vi Khuê với “POEMS IN RAIN & FLOWERS” (Thơ Trong Mưa & Hoa), thi-tập song-ngữ, với các dịch-giả: Bernard Detrez, Chử Nhất Anh, Chử Nhị Anh, Huỳnh Sanh Thông, Nguyễn Huỳnh Diệp, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Phương Viên, Thanh-Thanh, Trần Nhă Hoa, Tường Minh, Vi Khuê, Vơ Đ́nh, Vũ Đức; do “Sao” xuất-bản, ở Virginia (USA);  

            Vĩnh Liêm với tập thơ “WITHOUT BEGINNING WITHOUT END (Vô Thủy Vô Chung), do Nhà Lulu xuất-bản năm 2008;

            Vơ Đ́nh (Vơ Đ́nh Mai) phiên-dịch sang Anh-ngữ: tập thơ Thiền của Thích Nhất Hạnh Zen Poems of Nhat Hanh xuất-bản ở N. Carolina, năm 1976; 18 bài thơ thiền từ chữ Hán Fragrance of Zen / HƯƠNG THIỀN Los Angeles, năm 1981; (cùng Công Huyền Tôn nữ Nha Trang) 30 bài thơ Thiền và Kệ (của các Thiền sư Việt Nam) MỘt Cành Mai ParisSan Jose, California (USA) năm 2005;

            Vũ Hối có tập thơ “VẦn thƠ mÀu trẮng (La Póesie de Couleur Blanche) phiên-dịch sang Anh- và Pháp-ngữ, xuất-bản tại Sài-G̣n năm 1959;

*

            WORLD POETRY” (Thơ Thế-Giới) do “Quality Paperback Book Club” (Câu-Lạc-Bộ Sách B́a Mỏng) ở New York xuất-bản, là một hợp-tuyển-tập thơ, trong đó có một số bài do Nguyễn Ngọc Bích chuyển-ngữ từ tác-phẩm của một số tác-giả Việt-Nam, từ xưa như Hồ Xuân Hương, Khuông Việt, Lê Thánh Tông, Măn Giác, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Trăi, Trần Nhân Tông, Trần Tế Xương Vạn Hạnh, đến tiền-chiến (Đệ-Nhị Thế-Chiến) như Thế Lữ, Tú Mỡ, đến cả những tác-giả mới như Đoàn Văn Khâm, Hà Thị Thảo, Lê Ngọc Hiệp, Nguyễn Văn Lạc Trong số những nhà thơ kể trên, có một tác-giả c̣n sống, được nhiều người chú í, mà lại là thành-viên của Cộng-Đồng Người Việt Tị-Nạn tại Hải-Ngoại, đó là Du Tử Lê.

            V.v...

*

            Ngoài các thi-tập và thi-sưu-tập (được in thành sách), chúng tôi ghi nhận có những bài thơ được sáng-tác trực-tiếp bằng tiếng Anh và được in rời-rạc:

            *của Bùi Tiên Khôi, qua giảiGolden Poet Award”, ở Texas;

            *trong các sưu-tập thơ của Hoa-Ḱ, do các nhà xuất-bản “The National (sau này là International) Library of Poetry” (Thư-Viên Thi-Ca Quốc-Gia/Quốc-Tế) ở Maryland, “Famous Poets Society” (Hiệp-Hội Thi-Nhân Tài-Danh) ở Oregon, “Who’s Who in New Poets” (Thi-Nhân Tài-Danh Đợt Mới) ở New York, “Noble House” (Dưới Mái Thanh-Tao) ở London, “PoetryFest” (Hội Thơ) ở Oregon, của: Châu Mỹ, Đặng Nguyệt, Đỗ Huyền Châu, Hà Bỉnh Trung, Lê Ái, Lê Đạt, Lê Trâm, (Nguyễn) Minh Viên, Nguyễn Lương, Nguyễn Phúc, Nguyễn Vy Kim Ái, Phạm Henry Tước, Phạm Kim Khôi, Phạm Thị Lư, Thanh-Thanh, Trần Bảo, Trần Thị Diệp, Trần Văn Trương, v.v...;

            *trong đặc-sanWordBridge” của “The Writers Post” do N. Saomai chủ-trương, ở Florida, với thơ của: Hoàng Xuân Sơn, Ngô Đức Diễm, N.Saomai, Song Nhị, Sông Hồ, Thanh-Thanh, Uyển Nicole Dương, v.v...

            *trong các đặc-san: “Cỏ Thơm” của Nguyễn Thị Ngọc DungVirginia, “Đất Đứng” của Nhật-ThịnhKhuê DungSacramento, California; v.v...

            *trong các bán-nguyệt-sanVăn Nghệ Tiền Phong” của Hồ AnhVirginia, “Việt Báo” của Thủy Lâm SynhChicago; các tuần-báo Saigon Times” của Thái Tú Hạp, “Saigon Post” của Đặng Nguyên Phả ở Nam California; lưỡng-tuần-báoThế-Giới Mới” của Trương Sĩ LươngTexas; các nguyệt-san: “Người Việt” của Trần Thiện ĐạtNew York, “Thế-Giới Ngày Nay” của Lê Hồng LongKansas, “Suối Văn” của Ngọc ThủySan Jose; tuần-sanViet magazine” của Nguyễn ChâuSan Jose, CA; v.v...

             Ngoài ra, c̣n có những thi-tập tiếng Việt có xen lẫn một vài bài thơ tiếng Anh do chính tác-giả sáng-tác hay do người khác chuyển-ngữ giùm, thí-dụ:

            CHẮP CÁNH THƠ” của Khang Lang, có bài dịch của Ngô Đa Thiện, Song Nhị, Thanh-Thanh;

            CAO NGỌN CỜ VÀNG” của Việt Tâm, có bài sáng-tác của tác-giả;

            CƠN ÁC-MỘNG” của Thanh-Thanh, có bài sáng-tác của tác-giả;

            GIỮA D̉NG” của Lê Nguyễn, có bài dịch của Ngô Đa Thiện, Minh Khoa, Phạm Ngọc, Song Nhị, Thanh-Thanh, Thu Vân, Vô T́nh;

            NGÀN NĂM GỬI MÂY BAY” của Hồ Mộng Thiệp, có bài dịch của Phan Viết Phùng, Thanh-Thanh;

            RỪNG THU XƯA VẪN NHỚ” của Ngọc An, có bài dịch của Dư Phước Long, Ngô Đa Thiện, Nguyễn Gia Liên, Phan Viết Phùng, Thanh-Thanh;

            THƠ VIỆT HẢI-NGOẠI” của Thụy-CầmDương Huệ Anh, có bài sáng-tác của Thanh-Thanh;

            TIẾNG HÓT CỦA LOÀI CHIM DI” của Song Nhị, có bài dịch của Ngô Đa Thiện, Thanh-Thanh, Tony O’Donnell;

            TIẾNG HỜN CHIẾN MĂ” (tái-bản) của Song Nhị, có bài dịch của Hồ Thị Tâm, Ngô Đa Thiện, Thanh-Thanh;

 v.v...

*

            Bên cạnh hoạt-động của các nhà thơ đă ra công-chúng, c̣n có nỗ-lực của những cây bút c̣n ngồi trên ghế học-đường, mà thơ của họ được in trên các nội-san, ít được phổ-biến ra ngoài.

            Cũng có những nhà thơ mà v́ hoàn-cảnh sinh sống đặc-biệt ít có cơ-hội tiếp-xúc với các “đồng-nghiệp” từ phía cộng-đồng gốc Việt, thí-dụ một số sinh ra, lớn lên, ở lâu, tiếp-xúc phần lớn thời-gian với người chính gốc sở-tại, nên đă sinh-hoạt văn-học nghệ-thuật, và thơ, trong cùng một giới với nhau, thí-dụ: các Ban Văn-Nghệ & Báo-Chí, các Hội Sinh-Viên, tại các trường trung-học, đại-học; các thành-viên của các tổ-chức chính-lưu như Nhà Hát Lớn, Viện Bảo-Tàng, Cơ-Sở Văn-Hóa, điển-h́nh là Nhóm Ư Thức (Friday@5PM) của Liên Trường Đại-Học Bắc Cali; Nhóm Thơ slam Mai Piece, ở San Francisco, CA, gồm có Anh Đào Đỗ Lê, Bảo Phi, Jenni Thanh Trang Lê, Long Nguyễn, Taylur Thu Hiền Nguyễn,...

            Ngoài ra, cũng có một số cá-thể sáng-tác bằng tiếng Anh: Mong-Lan, Quan Barry...

*

            Tưởng cũng nên nhắc đến các hoạt-động thơ trên Internet Đây là phương-tiện dễ-dàng, nhanh-chóng, rẻ tiền, nhất là tự-do, để các nhà thơ, dù đă hay chưa thành-danh, phóng thơ của ḿnh, hoặc của người khác mà ḿnh ưa thích, qua các diễn-đàn liên-mạng, ra khắp bốn phương trời.  Các diễn-đàn chú-trọng thơ là: Cây Me của Đàm Quang Vinh, Silicon Band, Việt-Nam Thi-Đàn của Lê Hoàng Phong, Vui Cười của Văn Bia, Vườn Thơ Tao Đàn, v.v...

            Có một số diễn-đàn hoặc tạp-chí ảo, mở hẳn một mục thơ thường-trực, như: Ánh Dương của Hoàng Vân; Đặc Trưng của Nhật Huy; Đối-Lực (Viet Marketing) của Nguyễn Bá Long; Gia My; Giao Mùa của Trung Kỳ; Hồn Quê của Nhật Vũ; Mực Tím của Giọt Nắng Diên Vy; Miền Trung Việt-Nam của Bùi Ngọc Hiệp; Suối Nguồn của Thơ Thơ; Suối Nguồn Tâm Tư của Thiện Doăn; Thời Nay của Trần Việt Hải Đạm Thủy; Thi Uyển của Đặng Hiền; Trinh Nữ; Văn Học Nghệ Thuật của Lan Phạm; Văn Nghệ Ngàn Phương của Tường Vi; Việt Báo; Việt Messenger; VietNam Journal của Đoàn Đức Tâm; Việt Nam Thư Quán; Vietnamese Youth; Viet-USA của Tri Nguyen Nguyễn Quang Dinh; VN Literature; và một số Web site của các nhà thơ: Bright Quang; Hà Huyền Chi (trên Mạng của Trinh Nữ và Mạng của Hà Phương Hoài); Song Nhị (trên Mạng Cơ-Sở Thi+Văn “Cội Nguồn”); Thanh-Thanh (trên Mạng ThiNhanVietNamPOETfromVIETNAM), Trần Trung Đạo, v.v...

            Trên một số diễn-đàn ảo, mới đây thỉnh-thoảng có thêm thơ tiếng Anh sáng-tác của Trúc Lang.

            Trên Mạng có một danh-mục các tác-giả và tác-phẩm do Luân Hoán sưu-tầm; một “Thư Viện Việt Nam” của Tâm Vô Lệ, tập-trung khá nhiều tác-phẩm, trong đó có thơ, của hầu hết mọi tác-giả gần xa, từ trước đến nay; v.v...

 

III

 

            Sách nói chung, thơ nói riêng, mà được kí-nạp tại Thư-Viện của Quốc-Hội Hoa-Kỳ, thư-viện của các trường đại-học cũng như các nước khác, là một h́nh-thức và phương-tiện phổ-biến văn-hóa, nếu không muốn nói là tuyên-truyền, rất hữu-hiệu.

            Hiện nay, số sách [trong đó có thơ] của Việt-Nam nội-địa th́ đă hiện-diện tại các nơi ấy rất nhiều, trong lúc sách của Cộng-Đồng Người Việt Tị-Nạn Cộng-SảnHải-Ngoại th́ ít hơn.  

            Riêng Thư-Viện của Quốc-Hội Hoa-Ḱ được xem như là thư-viện chung cho cả hoàn-cầu.

            Do đó, có một số nhà thơ, và nhà xuất-bản, muốn phổ-biến rộng-răi tác-phẩm của ḿnh, đă không chỉ trông-cậy vào các buổi tŕnh-mại sách, các bài giới-thiệu trên báo & đài, các sạp bày bán, mà c̣n gửi tặng cho càng nhiều thư-viện càng tốt hiển-nhiên Thư-Viện Quốc-Hội Hoa-Ḱ là nơi lí-tưởng nhất.  

            Các thi-sĩ, và nhà xuất-bản mà chỉ lâu lâu mới xuất-bản một tập thơ, th́ việc có hay không có kí-nạp sách của ḿnh vào Thư-Viện Quốc-Hội Hoa-Ḱ, không thành vấn-đề; nhưng có một số nhà xuất-bản in sách thường-xuyên mà lại không chú-í đến vấn-đề này th́ là một nhược-điểm.  Nhà xuất-bản “Xây-Dựng” của Thanh-Thanh, Cơ-Sở Thi Văn “Cội Nguồn” của Song Nhị, nhà xuất-bản “Sao” của Vi Khuê, th́ có lưu-tâm đến nơi lưu-trữ bảo-đảm và trường-cửu ấy cho tác-phẩm của ḿnh; c̣n “Hội Thơ Tài-Tử Việt-Nam” của Như Hoa, nhà xuất-bản “Phương Đông” của Dương Huệ Anh, Tủ Sách “Phụ Nữ Thời Nay” của Diễm Châu, th́ không kí-nạp sách của ḿnh vào kho tàng văn-học và văn-hóa ấy của toàn-cầu, thật là đáng tiếc.  

            Để giải-quyết vấn-đề này, chúng tôi đề-nghị các tác-giả, các Hội Văn-Học Nghệ-Thuật, các nhà xuất-bản, dù là chuyên-nghiệp hay tùy-hứng, của Người Việt Hải-Ngoại, lưu-í kí-nạp ấn-phẩm của ḿnh vào Thư-Viện nói trên (v́ có khá nhiều tác-phẩm giá-trị hiện-diện trên thị-trường mà không có mặt trong thư-viện ấy).

            Riêng về việc ghi danh vào Thư-Mục Quốc-Tế và kí-nạp vào Thư-Viện, xin đề-nghị lập thủ-tục xin số “ISBN” (International Standard Book Number) và cả số “LCCN” (Library of Congress Control Number), để người nghiên-cứu dễ t́m thấy sách của ḿnh trong thư-viện mênh-mông.

 

IV

 

            Đă nói về thơ th́ không thể không nói về thể thơ, vần thơ.

    Thơ Anh cũng như thơ Việt đều có cả thơ-có-vần lẫn thơ-không-vần (tức thơ tự-do, thơ buông, thơ văn xuôi, v.v...).

            Nh́n qua các bài tiếng Anh đă có, dù là sáng-tác trực-tiếp hay phiên-dịch, chúng tôi thấy rơ phần nhiều đều không có vần Có thể tác-giả và dịch-giả cho đó là thơ tự-do; nhưng, theo chúng tôi nghĩ, tuy có h́nh-thức là câu văn xuôi như nhau, nhưng các câu thơ phải có cái ǵ khác hơn một đoạn văn xuôi v́ nếu chỉ là văn xuôi th́ hóa ra đoạn văn nào, trong một bài dài, trong một đoạn dài, mà chỉ cần được ngắt câu xuống hàng, th́ cũng đều là thơ-không-vần?

    Đó là chưa kể, dù là văn xuôi, trong nhiều trường-hợp, chính các tác-giả là người (Anh, Úc) chính-thống mà cũng c̣n cần phải được các nhà viết thuê (ghost-writer) hiệu-chỉnh, huống ǵ chúng ta đa-số không phải là dân sinh ra đă nói/viết tiếng Anh, mà nay lại làm thơ tiếng Anh (Xin xem về nạn dùng sai chữ, dịch phản nghĩa, viết trật văn-phạm tiếng Anh ở phần dưới).  

            Tuy nhiên, nói thế không phải là để chúng ta ngại-ngần trong việc làm thơ tiếng Anh hay dịch thơ tiếng ḿnh sang thơ tiếng Anh.

            Xin đề-nghị các bạn hăy mạnh-dạn sáng-tác trực-tiếp, hoặc đẩy mạnh việc chuyển-ngữ các tác-phẩm của ḿnh qua tiếng Anh, bắt đầu bằng từng bài một.  Có ai mà không có dịp gặp-gỡ chuyện-tṛ với người nước ngoài; và nếu ḿnh được giới-thiệu là một nhà-thơ mà lại có sẵn cả bản tiếng Anh để đưa cho họ đọc th́ cả họ lẫn ḿnh sẽ thích-thú đến ngần nào; huống hồ đăng lên báo, in thành sách, gửi vào thư-viện cho mọi người có thể đọc được, tức là góp phần giới-thiệu văn-học, văn-hóa của nước ḿnh, đến độc-giả các nước ngoài.

*

            Về việc phiên-dịch/chuyển-ngữ thơ, dịch-giả không phải chỉ cần giỏi tiếng Anh, mà c̣n cần phải sành thơ, biết thêm đặc-ngữ, điển-tích, v.v...  

            Xin đơn-cử vài thí-dụ:  

            1) Trong cuốn “The Silence of Yesterday (Sự Im Lặng của Ngày Hôm Qua) của Cội Nguồn, có bài thơ tiếng ViệtLui Về Tiền Sử của Khang Lang, trong đó có đoạn “Ta, hề! Một dịch-giả được gọi là học-giả, đă dịch 2 chữ Ta, hề ra là It's laughable! (Nực cười thay!).  Người rành thơ Việt hẳn biết giai-thoại Kinh Kha với các câu Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn, Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn (Gió hiu hắt thổi, sông Dịch lạnh, Tráng sĩ ra đi không trở về).  Nhiều thi-sĩ Việt đă dùng chữ hề, thí-dụ Trần Hoan Trinh trong bài Tráng Sĩ Hành Ca:

                Vung kiếm ta ca, hề, Sát Thát

                Vỗ gươm ta hát, hề, Nam chinh

                Vẫy súng ta thề, hề, Bắc phạt

                Găy đàn, ta mơ, hề, thái b́nh...

            Có người Việt-hóa (Nôm-hóa) chữ hề thành chữ chừ, thí-dụ Minh Đức dịch bài Phóng Cuồng Ngâm của Tuệ Trung Thượng Sĩ, với các câu:

                Trời đất liếc trông chừ, ôi mênh mang!

                Chống gậy rong chơi chừ, phương ngoài phương

                Dạo chốn cao cao chừ, mây đỉnh núi

                Hoặc nơi sâu sâu chừ, nước trùng dương...

            Chữ hề ở đây không có nghĩa là làm hề, như một tên hề, mà là một thán-từ (interjection) tương-đương với Hey! Ho! trong tiếng Anh, dùng để nhấn mạnh một cảm-xúc, trong các lời ca, tiếng hát, thí-dụ Ban Nhạc The Lumineers của nổi tiếng với bài:

                 (Ho!) I've been trying to do it right

                 (Hey!) I've been living a lonely life

                 (Ho!) I've been sleeping here instead

                 (Hey!) I've been sleeping in my bed...  

            2) Trong cuốn “Ru Thầm Tiếng Gọi Việt Nam” của Ngọc An, có bài thơ “Biển Nhớ” trong đó có câu “Bao nhiêu hạnh phúc chắt chiu, Đào Nguyên một thuở Nguyễn Lưu lạc đường, mà người dịch, được giới-thiệu là một giáo-sư tiến-sĩ, đă dịch ra là So much bliss had been spared, Of a happy land, now Nguyen Luu lost his way! lại c̣n chú-thích là: Nguyen Luu, an imaginary person in a historical myth who had visited the paradise in Heaven (Nguyễn Lưu là một nhân-vật tưởng-tượng trong thần-thoại lịch-sử cho rằng ông đă viếng thăm thiên-đường trên Trời”).  Nguyễn Lưu thực ra là Lưu+Nguyễn, là hai nhân-vật Lưu ThầnNguyễn Triệu, đời Hán, đă từng lạc vào Thiên-Thai, chứ không phải là một ông Nguyễn Lưu.  

            3) Trong tác-phẩm cuối đời của Hà Huyền Chi, The Best of Ha Huyen Chi”, người dịch, cũng là nhà-thơ/nhà-văn, đă dịch bừa-băi rất nhiều câu thơ trong nhiều bài thơ.  Vài thí-dụ:  Bài số 591, có câu Dăm thùng sách mới nằm say ngủ, mà lời dịch là Some new book boxes do not open (Mấy thùng sách mới không mở ra). Open là một ngoại/tha-động-từ (mở [cái ǵ] ra), mà thùng sách là tĩnh-vật, không thể làm chủ-từ cho open, làm sao tự mở ra được.  Bài số 592, có câu Nói ǵ câu đá ṃn sông cạn, mà lời dịch là We no need to talk about the fervid loyalty.  Nếu need là danh-từ th́ nó phải là We don't have the need to; nếu nó là động-từ th́ nó phải là We don't need to; không thể nói/viết We no need.  Bài 594, có câu Yêu nhau là chuyện hoang đường, Không yêu đời lăng, lại thương tiếc đời, mà lời dịch là Falling into our affections are a fabulous story, But if we do not love We will be regret all our lives.  Động-danh-từ fallingsố ít, làm chủ-từ cho to be, th́ to be phải ở số ít (is) chứ không thể ở số nhiều (are); to be là động-từ bất-quy-tắc, nếu đứng trước một động-từ thứ hai, th́ động-từ thứ hai phải ở thể tiến-hành (be regretting) hoặc quá-khứ phân-từ (It will be regretted),...

*

         Riêng về việc sáng-tác trực-tiếp hoặc chuyển-ngữ thơ Việt qua tiếng Anh, mà muốn thành thơ có vần, chúng tôi xin các bạn để í một điểm, đó là vần thơ (rhyme) trong tiếng Anh 

            Lâu nay, có nhiều bài thơ tiếng Anh mà tác-giả và dịch-giả người Việt muốn viết ra như-có-vần nhưng đều thực-sự không-có-vần.  

            Tiếng Anh là tiếng đa-âm, tiếng Pháp cũng là tiếng đa-âm, nhưng có sự khác nhau là, trong tiếng Pháp th́ âm (syllable) nào cũng được phát-âm (nhấn giọng) như nhau, giống như các âm trong các từ đa-âm của tiếng Việt; ngược lại, trong tiếng Anh th́ chỉ có một hoặc một số âm là được nhấn giọng (stress, emphasize), c̣n các âm khác th́ không được nhấn giọng cho nên không được xem là một âm trong việc chọn âm để định vần cho thơ.  

            Thí-dụ:

            happy” (Anh) và “heureux” (Pháp) là sướng thỏa,

            merry” (Anh) và “joyeux” (Pháp) là hể-hả,

            Xét trong tiếng Việt, th́ “sướng thỏa” và “hể-hả ăn vần với nhau, v́ ta dùng các âm cuối là “thỏa” và “hả”; cũng như trong tiếng Pháp th́ “heureux” và “joyeuxăn vần với nhau, v́ Pháp dùng các âm cuối là “reux” và “yeux” để làm vần cho thơ.

            C̣n trong tiếng Anh th́, ngược lại, v́ các âm cuốipy” (trong “happy”) và “ry” (trong “merry”) là âm không được nhấn giọng, nên không được dùng làm vần cho thơ; trong lúc đó th́ “hap” (trong “happy”) và “mer” (trong “merry”) mới là âm được nhấn giọng, nhưng chúng lại không ăn vần với nhau, v́ một bên là “hap” và một bên là “mer”; do đó, “happy” và “merry” tuy đều tận cùng bằng âm “y” (pyry) nhưng v́ “hap” và “merkhông ăn vần với nhau, nên ta không thể dùnghappy” và “merry” làm 2 âm cuối-cùng cho 2 câu thơ có vần.

*

            Tóm lại, chúng ta cần sáng-tác trực-tiếp hoặc phiên-dịch hay chuyển-ngữ thơ tiếng Việt sang tiếng Anh, để tiếng nói đầy t́nh-tự dân-tộc của Người Việt nói chung, của Người Việt Hải-Ngoại nói riêng, không bị quên lăng, hoặc bị lấn-át bởi tiếng nói phi-dân-tộc, trước “bốn biển, năm châu”, trong bối-cảnh toàn-cầu-hóa mọi sinh-hoạt hiện nay.

 

                                                      NGƯỜI THƠ

                               Hội-viên Văn-Bút Quốc-Tế, PEN America