bài của Người
Thơ
*
Chúng
ta đă bước vào thiên-niên-kỷ thứ ba, và
sống trong một thời-đại mà các sinh-hoạt chính
của mỗi nước, và do đó của mỗi người,
đều có chiều-hướng toàn-cầu-hóa,
nói nôm-na là mở cửa để tiếp-thu từ toàn-cầu,
đồng-thời dấn thân để ḥa-nhập vào toàn-cầu.
Trong
hoàn-cảnh đó, thơ là một trong các sinh-hoạt nói
trên. Bởi thế,
đă có khá nhiều bài thơ, tập thơ, hợp/tuyển-tập
thơ, của khá nhiều nhà thơ, từ tiếng nước
ḿnh được dịch sang tiếng nước ngoài.
Một
trong những ngôn-ngữ thông-dụng nhất trên
thế-giới hiện nay là tiếng Anh. Cho
nên, ngoài thơ của các tác-giả nói-tiếng-Anh (như
Anh,
Mĩ, Úc,
Canada,...) từ lâu đă có khá nhiều thơ của
các người nước khác được dịch sang
tiếng Anh.
Trong
thời-gian qua, Việt-Nam cũng đă bắt đầu
giới-thiệu thơ của ḿnh với người nước
khác, bằng cách sáng-tác trực-tiếp, hoặc phiên-dịch
(hay chuyển-ngữ) từ tiếng Việt sang tiếng Anh.
Có
sáng-tác bằng tiếng Anh hay phiên-dịch qua tiếng Anh, th́
mới mong được người nước ngoài
đọc đến, chia-sẻ với chúng ta những ǵ
mỗi một nhà thơ, đại-diện phần nào cho
dân-tộc Việt-Nam,
tâm-hồn Việt-Nam,
dù trong một hoàn-cảnh nhất-định,
gửi-gắm trong từng vần điệu thi-ca.
*
Sinh-hoạt
thơ tiếng Anh của Người
Việt Hải-Ngoại
được thể-hiện qua hai ḍng chính:
· thơ
của các tác-giả
ở trong nước Việt-Nam;
và
· thơ
của các tác-giả
định-cư/tị-nạn cộng-sản ở các nước nói-tiếng-Anh.
Về
ḍng thơ tiếng Anh của Việt-Nam
quốc-nội,
ta thấy hầu như chỉ là thơ phiên-dịch (hoặc chuyển-ngữ),
chứ không phải là sáng-tác trực-tiếp bằng tiếng Anh.
Hiện
nay đă có một số thi-tuyển-tập (của
nhiều tác-giả) và thi-tập (của một tác-giả),
mà đáng chú í nhất là các ấn-phẩm do nhóm Nguyễn
Bá Chung, thuộc Trường
Đại-Học UMB (University of
Massachusetts) ở Boston
(USA)
ấn-hành:
“MOUNTAIN AND RIVER” (Núi Sông, Sông Núi, hoặc Non Sông),
do Kevin Bowen, Nguyễn
Bá Chung, và Bruce
Weigl, phiên-dịch
(Thơ
trong tuyển-tập này gồm có những bài được
sáng-tác trong khoảng từ
1948 đến 1993, qua
2 cuộc chiến kháng
Pháp và chống
Mỹ, từ thơ
của Hồ Chí Minh đến thơ của Nguyễn Quang Thiều),
“SIX VIETNAMESE POETS”
(6 nhà thơ Việt-Nam),
gồm có Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn
Khoa Điềm, Xuân
Quỳnh, Ư Nghi,
Nguyễn Đức Mau,
và Phạm Tiến
Duật, mà tác-phẩm
được viết trong thời-gian “chống
Mỹ”, do Kevin
Bowen và Nguyễn
Bá Chung chuyển-ngữ;
“DEDICATED TO A DREAM”,
“THE ADVENTURE OF THE PHOENIX”, chuyển-ngữ,
của Lâm Thị Mỹ Dạ,
chung với Xuân
Quỳnh, Phạm Tiến Dũng,
và Anh Thơ,
trong bộ American
War and Post-War Poetry;
“DISTANT ROAD”
(Đường Xa), thơ của Nguyễn
Duy, do Nguyễn
Bá Chung và Bruce
Weigl phiên-dịch;
“THE WOMEN CARRY RIVER WATER” (Các Cô Gánh Nước), thơ
của Nguyễn Quang
Thiều, thuộc
thế-hệ sau-1975, do Martha
Collins và Nguyễn
Quang Thiều chuyển-ngữ.
Nhóm Nguyễn
Bá Chung cũng
giới-thiệu các thi-sưu-tập: “VIETNAMESE
POETRY FROM THE WARS” (Thơ
Việt Qua Các Cuộc Chiến), “POEMS
FROM CAPTURED DOCUMENTS”
(Thơ Trong Tài-Liệu Địch), phiên-dịch những bài thơ lẫn-lộn trong các tài-liệu
bắt được (của Cộng-Sản
Việt-Nam?).
Nguyễn Bá Chung
và các nhân-vật liên-hệ đều thuộc Trung-Tâm William Joiner (WJC)
của Trường Đại-Học UMB, là nhóm chủ-trương viết lại lí-lịch
và vị-trí của Người Việt Tị-Nạn
Cộng-Sản, mà lại thuê các nhà văn chịu
ảnh-hưởng cộng-sản từ trong nước
ra thực-hiện dự-án nói trên, nên bị cộng-đồng
Người Việt Hải-Ngoại khắp nơi chống-đối
quyết-liệt nhiều năm trước đây...
Nói
chung, các tập thơ tiếng Anh dịch từ thơ tiếng Việt
ở trong nước đều được một
số nhân-vật hay tổ-chức ở nước ngoài
mà có thiện-cảm với Việt-Nam
nội-địa
phiên-dịch và ấn-hành. Nội-dung tổng-quát là
để đề-cao
cộng-sản Việt-Nam,
dù có những bài “vô thưởng, vô phạt” th́ cũng
là để chứng-tỏ
rằng công-việc sáng-tác hiện nay ở Việt-Nam
đă được tự-do (?).
(Nhân
đây chúng tôi cũng kể thêm SPRING
ESSENCE (Hương
Xuân, tức Xuân Hương), gồm có một
số bài thơ của nữ-sĩ Hồ Xuân Hương,
do John Balaban,
giáo-sư thi-sĩ người Mĩ, ở North
Carolina,
giới-thiệu. Hồ
Xuân Hương là của dân-tộc Việt-Nam,
chứ không thuộc riêng hàng-ngũ của các nhà thơ
hiện nay ở Việt-Nam; nhưng chúng tôi tạm kê vào đây để
ghi nhận việc làm của thi-sĩ Mĩ
này, đă t́m-ṭi và trân-quư những vần thơ có giá-trị trường-cửu
của Việt-Nam, một cách khách-quan và vô-tư, chứ không
có hậu-í hay mưu-đồ ǵ như ai kia.)
Điều
đặc-biệt là tất cả các ấn-phẩm
ấy đều đă được kí-nạp vào thư-viện
Quốc-Hội Hoa-Ḱ,
và một số thư-viện các trường đại-học
ở Mĩ và
ở các nơi khác, do có chính-sách của nhà cầm
quyền từ trong nước, hoặc chủ-trương
của các giới-chức chuyên-môn liên-quan ở nước
ngoài.
II
Về
ḍng thơ tiếng Anh của Người
Việt Hải-Ngoại,
ta thấy có hai nguồn song-song:
· thơ
trực-tiếp sáng-tác
bằng tiếng Anh, và
· thơ
phiên-dịch
hay chuyển-ngữ
sang tiếng Anh.
Thơ
trực-tiếp sáng-tác
bằng tiếng Anh th́ được phổ-biến qua ba con
đường: đăng-tải rời-rạc, in chung
trong các tuyển-tập, và xuất-bản thành tập riêng.
V́ là thơ
sáng-tác bằng tiếng Anh, nên các tác-giả đă đi thẳng vào
các tạp-chí thi-ca
của Mĩ, các diễn-đàn/nhà-mạng
thi-ca của Mĩ thực-hiện trên mạng lưới thông-tin
toàn-cầu, các tuyển-tập
thơ quốc-tế của
Mĩ, Anh; cũng như xuất-bản
thành tập theo cung-cách
của phương Tây.
Riêng
thơ tiếng Anh
đă được ấn-hành thành tập,
th́ ta thấy có các tác-giả và dịch-giả cũng như
tuyển-tập sau đây:
Barbara Tran
với thi-tập sáng-tác
“IN THE MYNAH BIRD’S OWN WORDS” xuất-bản ở Hoa-Ḱ năm
2002;
Bright Quang
với các thi-tập sáng-tác
“POETRY AND ART” ấn-hành ở Redwood City,
Bắc California
(USA) năm 1998, “MY TORCH”
(Ngọn Đuốc của Tôi) năm 2003;
Christine Sa
với thi-tập sáng-tác
“THE PARTING YEAR” xuất-bản ở Toronto,
Canada;
Du Tử Lê với
một số thi-tập: “Hoa Nào Tin QuẢ ĐẮng
ĐẾn Không NgỜ / Flowers can’t believe fruits would grow that
bitter” do Như Hạnh, Nhan Chung
chuyển-ngữ,
xuất-bản ở Mĩ
năm 1999, “TrUỜng KhÚc
MẸ vỀ BiỂn ĐÔng/ Tributes to Mother on her way home via
Pacific Ocean” do Thiên Nhất Phương
và Trần
Lệ Khánh
chuyển-ngữ,
năm 2002, v.v...;
Đinh
Linh với các
thi-tập sáng-tác “ALL
AROUND WHAT EMPTIES OUT”
xuất-bản năm 2004, “AMERICAN
TATTS”
năm 2005, “BORDERLESS
BODIES”
năm 2006;
Đỗ
Vinh [Joseph
Đỗ
Vinh Tài]
với thi-tập sáng-tác
“Green
Plums“
xuất-bản ở California
(USA) năm 2005;
“FLOWERS OF LOVE / FLEURS D’AMOUR”
(Cụm Hoa T́nh Yêu), tuyển-tập tam-ngữ
Việt-Anh-Pháp, sáng-tác
trực-tiếp lẫn chuyển-ngữ, Tập I (40 tác-giả), Tập II (45 tác-giả),
Tập III (66 tác-giả); Tập IV (32 tác-giả); với các
tác-giả tiếng
Anh:
Đ́nh Duy Phương,
Doan Nam Nhan, Hoài
Việt, Hoàng
Hoa, Hồng
Phương, Hương
Nam, Kim
Phuong Tran, Lê
Khắc Lư, Lê
Sỹ Đông, Lê
Trọng Nghĩa, Le Van Ba, Lưu
Hoài, Lưu
Trần Nguyễn, Ly Châu, Như-Hoa, Nguyễn Phúc
Sông Hương, Nguyễn
Thị Sen Trắng, Nguyễn Thùy Linh,
Paul Cao,
Phạm Ngọc,
Phạm Nhă Dự, Thanh-Thanh,
Thu-Vân, Tina Thanh Hương,
Trac Pham, Trần
Tịnh Như, Tyna, Vinh Hồ,;
với các dịch-giả: Ali
Smaoui, Be
Davison Herrera, Charles Nguyen, Christopher
Vũ, Du Phước Long,
Duy Tường, Đào
Thanh Khiết, Elsie
Whitlow Feliz, Hoài Việt, Huỳnh
Sanh Thông, Joyce Odam, Lê
Cao Phan, Lê
Sỹ Đông, Ngọc
Nguyệt, Ngô Đa
Thiện, Nguyễn
Đại Thanh, Nguyễn Đắc Khoa,
Nguyễn Trọng B́nh,
Nhă Dự, Như
Hoa, Nhựt
Nguyệt, Phạm Ngọc,
Phạm Phan Thị
Bạch Nga, Thanh-Thanh, Thu Vân, Trần Minh
Hiền, Vo Tinh, Vơ
Thị Xuân Hiệp, Vũ Đức Tô Châu,
Vũ Lang, Ư Nga;
do “Hội Thơ Tài-Tử Việt-Nam” của Như-Hoa Lê Quang Sinh
ấn-hành, ở Sacramento,
Bắc California (nay
đă dời qua Dallas,
Texas), USA;
Hà Huyền Chi với tập thơ
song-ngữ “SHARPENING
THE SWORD ON THE SIDELINE”
(Bên Trời Mài Kiếm) do Ngô
Đ́nh Chương phiên-dịch,
Đàm Trung Pháp
hiệu-đính, ấn-loát ở Washington, và “The Best of Ha Huyen Chi” do
Binh Nhung phiên-dịch;
xuất-bản ở Hoa-Ḱ;
Hạ Ái Khanh với thi-tập “SPEECHLESS (NGHẸN NGÀO)” sáng-tác và tự chuyển-ngữ
dưới bút-danh
Dien Viet Duong
[Dương Viết Điền],
xuất-bản năm 1998;
Hoa Nguyen với các thi-tập sáng-tác “YOUR ANCIENT SEE THROUGH” năm
2002, “AS
LONG AS TREES LAST” xuất-bản
tại Hoa-Ḱ năm 2012,
“HECATE LOCHIA” năm 2012,
RED JUICE năm
2014;
Hoàng Du Thụy trong các tuyển-tập sáng-tác: “A break In The Cloud” xuất-bản năm 1993, và “Dance On The
Horizon” năm 1994;
Hoàng Ngọc Văn với
thi-tập sáng-tác
và tự
chuyển-ngữ “CUỘC
ĐỜI (ONE'S LIFE)”
ra mắt tại San
Jose, California (USA);
Huyền Chương Quư
với tập thơ tự chuyển-ngữ “KHÁT
VỌNG TỰ DO”
(The War and The Americas in My Country);
Huỳnh Sanh Thông biên-khảo
phiên-dịch
“An
Anthology Of Vietnamese Poems - From the Eleventh through the twentieth
Centuries” xuất
bản ở New Haven,
Connecticut (USA) và
London (Anh);
Joseph Do Vinh Tai
với các tập thơ Mĩ-Việt sáng-tác
và chuyển-ngữ “GREEN
PLUMS” (Đào
Non) “APOLOGIES TO
THE MOON” (Tạ
Tội Cùng Trăng), do Broken-Heart
Press ấn-hành năm
2008;
Khế Iêm với tác-phẩm “Blank
Verse (ThƠ KhÔng VẦn)” cùng
Đỗ Vinh
phiên-dịch
ấn-hành ở California
(USA) năm 2006;
Kim Vũ
với các thi-tập Việt-Anh sáng-tác
và tự chuyển-ngữ
“SUCH IS MY LOVE,
SWEETHEART” (T́nh
Anh Như Thế Đấy), WHEN
I LOVE YOU” (Khi Yêu
Em); và các tuyển-tập “VIETNAMESE
POETRY: A SAMPLER” (Việt
Nam: Những Áng Thơ Tuyệt Tác), “THE FINEST PIECES OF MODERN VIETNAMESE POETRY”
(Những Áng Thơ Tuyệt Tác Hiện Đại) do Kim
Vũ phiên-dịch,
tự xuất-bản, ở San
Jose, Bắc California,
(USA);
Lại Thanh Hà
sáng-tác “Inside Out & Back Again”
(Đi Rồi Lại Về) tiểu-thuyết bằng
121 bài thơ, xuất-bản năm 2011;
Lê Phạm Lê với
các thi-tập sáng-tác
“FROM WHERE THE WIND BLOWS” (Gió Thổi Phương Nào) và “WAVES
BEYOND WAVES” ấn-hành
ở San Francisco,
Bắc California
(USA);
Lê Thị
Thấm Vân (Lê
Thị Hoàng Mai)
với thi-tập sáng-tác “Yellow Light”
xuất-bản năm 1998;
Lê Văn Tài
với tuyển-tập
sáng-tác
“Empty arms
surrounded by warm breath”
ra mắt năm 1987;
Linh Đinh (Đinh Hoàng
Linh) với các tác-phẩm
sáng-tác “DRUNKARD
BOXING” (Vơ Say)
xuất-bản năm 1998, “A
SMALL TRIUMPH OVER LASSITUDE”, “A
GLASS OF WATER”, đều
ở Philadelphia,
Pennsylvania
(USA), năm 2001;
“LOVE POEMS”
(Thơ T́nh), tuyển-tập chuyển-ngữ,
xuất-bản ở Nam California
(USA);
Mai Nguyên
với tuyển-tập-thơ sáng-tác
và phiên-dịch “VAP”
(?);
Minh Viên với các thi-phẩm “THE
UNHEALED WOUND” (Vết Thương Chưa Lành),
“A NIGHTMARE WAR” (Cuộc
Chiến Ác-Mộng), “BLUE RAIN”
(Mưa Xanh), sáng-tác,
ấn-hành ở San Francisco,
Bắc California, Hoa-Ḱ, v.v...;
Mộng Lan với thi-tập sáng-tác “Song of the Cicadas”
xuất-bản ở Massachusetts
(USA) năm 2001;
Ngô Đ́nh Chương
với “QUIET ALLEY IN THE EVENING”
(Chiều Đêm Xóm Vắng), song-ngữ, do tác-giả sáng-tác
và tự chuyển-ngữ, ấn-hành ở San
Jose, Bắc California
(USA);
Nguyễn Đỗ
với hợp-tuyển-tập “THƠ
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI”
cùng Paul Hoover
chuyển-ngữ,
do University of Iowa
ấn-hành;
Nguyễn Mạnh Quang
với “A POEM FOR
MY CHILDREN” (Bài Thơ
Cho Con) do tác-giả sáng-tác
và tự chuyển-ngữ,
xuất-bản ở Tacoma,
Washington (USA);
Nguyễn Phúc Sông Hương (Thái Luân) với “AMONG PEOPLE”
(Giữa Những Con Người), sáng-tác
trực-tiếp, xuất-bản ở Sacramento,
Bắc California (USA)
năm 1995;
Như-Hoa Lê Quang Sinh với
“THE OLD DAYS / LE VIEUX TEMPS”
(“Chuyện Ngày Xưa”), thi-tập tam-ngữ Việt-Anh-Pháp, với các
dịch-giả: Duy Tường,
Lê Sỹ Đông,
Như Hoa, Thanh-Thanh, Thu
Vân; do “Hội
Thơ Tài-Tử Việt-Nam Quốc-Tế”
xuất-bản, ở Sacramento, Bắc California
(USA);
Ngô Tằng Giao
tự chuyển-ngữ
các tập thơ “MƯA
XUÂN” ấn-hành năm
2000, “HƯƠNG
MÙA VU LAN” năm
2007;
Nguyễn Chí
Thiện với các tác-phẩm được Nguyễn Ngọc Bích
phiên-dịch
sang tiếng Anh: “NGỤC
CA / PRISON SONGS”
xuất-bản năm 1982, “Hoa ĐỊa
NgỤc / The Flowers of Hell” năm 1996, “HẠt MÁu
ThƠ / Blood Seeds Become Poetry” năm 1996;
Nguyễn Hữu Lư
đă chuyển-ngữ và cho ra đời các tác-phẩm: “T̀NH
MẸ TRONG THƠ VIỆT NAM:
Collection of Poems on Motherly Love”,
“QUÊ HƯƠNG QUA THI CA: Anthology of Homeland in Vietnamese Poetry and Songs”,
“XUÂN VÀ TUỔI TRẺ VIỆT NAM: Anthology of Springs and Youth of Vietnam”,
do Nhóm Văn Hóa
Pháp-Việt ở Paris
giới-thiệu, và “NHỮNG
CON ĐƯỜNG LƯU VONG:
Les Sentiers de l'Exile - The Paths of Exile”, do Hội Thơ Tài Tử Việt Nam của Như
Hoa phổ-biến;
Nguyễn
Ngọc Bích với các tác-phẩm biên-khảo và phiên-dịch:
“The poetry of
Vietnam”
xuất-bản năm 1969, “A thousand years of Vietnamese Poetry” năm 1975, “A mother’s Lullaby” (“Trường Ca Lời
Mẹ Ru” của Trương Anh Thụy)
năm 1989, “The Flowers of
Hell”
(“Hoa Địa Ngục”
của Nguyễn
Chí Thiện)
năm 1995, “Blood Seeds
Become Poetry” (“Hạt
Máu Thơ”
của Nguyễn
Chí Thiện)
năm 1996, v.v...;
Ocean Vương tức Đại Dương với các thi-tập sáng-tác “BURNING” xuất-bản năm 2010, “NO” năm 2013, “NIGHT SKY WITH EXIT WOUNDS” năm 2016, v.v...;
Phan Nhiên Hạo với các thi-tập sáng-tác “PARADISE OF PAPER BELLS” xuất-bản năm 1998, “MANUFACTURING POETRY” năm 2004, v.v...;
Song Hồ (Nguyen
Thanh Dam)
với “Rock and Flower” tự phiên-dịch từ “Đá và Hoa” (1992), xuất-bản năm
2000;
Thanh-Thanh
(Nhuan
Xuan Le) với “POEMS
BY SELECTED VIETNAMESE”
do Xây-Dựng
xuất-bản năm 2005, và “Vietnamese
Choice Poems” (tuyển-tập 146
bài thơ
tiếng Anh,
dịch từ nguyên-tác thơ
tiếng Việt
của 81 tác-giả
hiện sống tại Mĩ,
Gia-Nă-Đại,
Úc, Pháp,
Đức, Bỉ,
Na-Uy, Việt-Nam),
là tập-hợp nhiều nhất số thi-sĩ và
số bài dịch sang thơ
Anh, do Nhà Xlibris
ở Indiana
(USA) xuất-bản năm 2013; được
Nhà Tổng-Phát-Hành Amazon
đưa vào danh-sách “Favorite
Books of the Year”
trong Mục “Best
Books of 2014”;
“THE SILENCE OF YESTERDAY” (Sự Im-Lặng của Ngày Hôm Qua), song-ngữ,
sáng-tác trực-tiếp lẫn chuyển-ngữ,
của 22 tác-giả, với các tác-giả
tiếng Anh: Ngô Đức
Diễm, Ngô
Đa Thiện, Nguyễn
Phúc Sông Hương, Phạm
Ngọc, Song
Nhị, Thanh-Thanh, Ư Yên;
với các dịch-giả:
Hoài Vân Tử,
Huỳnh Sanh Thông,
Ngô Đa Thiện,
Nguyễn Ngọc Bích,
Nguyễn Phúc Sông Hương, Phạm
Ngọc, Song Nhị, Thanh-Thanh,
Thy Vũ, Vĩnh Sinh, Vi-Khuê,
Vơ Đ́nh, Ư Yên; do “Cơ-Sở
Thi Văn Cội Nguồn”
của Song Nhị và
Diên Nghị giới-thiệu, ấn-hành ở San Jose,
Bắc California (USA);
Thoai Q. Tran (Trần
Quư Thoại) có các thi-tập sáng-tác: “Random
Thoughts” xuất-bản năm 2000), “Que sera
năm 2001, “Reflections” năm
2001;
“T̀NH YÊU, CUỘC SỐNG VÀ LƯU ĐÀY (LOVE,
LIFE, and... ”) thơ
Việt-Anh;
Trang Đài Glassey-Trầnguyễn với 3 tập thơ: “ANH HOA”
Anh-Việt tự chuyển-ngữ,
ấn-hành ở Saigon năm
1967, tái-bản ở Mĩ
năm 2005; “MARS
& VENUS” sáng-tác,
ở Hoa Ḱ năm 2001; “IN HARMONY”
sáng-tác,
ở Hoa Ḱ năm
2008;
Trần Mộng Tú
với 2 bài thơ “The Gift in
Wartime”
(Quà Tặng Trong Chiến Tranh) và “Dream of Peace” (Giấc Mơ Ḥa B́nh) do Vann Phan phiên-dịch
sang Anh-ngữ; bài trước được in trong “American
Literature Textbook”
(sách giáo-khoa, của nhà xuất-bản Mĩ Glencoe/Mc.Gnaw-Hill), bài sau được in trong
“Vision of War, Dream of Peace”
là tuyển-tập thơ của các cựu Nữ Quân-Nhân
và Y-Tá phục-vụ trong Chiến-Tranh Việt-Nam;
Trúc Lang
[Vĩnh Đỗ]
với thi-tập sáng-tác
“SEA AND SKY”
do Ngày Nay
xuất-bản năm 2005;
Trương Anh Thụy với thi-tập song-ngữ “GỬI MƯA CHO NẮNG” tự chuyển-ngữ sang tiếng Anh;
Vi Khuê với
“POEMS IN RAIN &
FLOWERS” (Thơ
Trong Mưa & Hoa), thi-tập song-ngữ, với các dịch-giả:
Bernard Detrez, Chử
Nhất Anh, Chử
Nhị Anh, Huỳnh
Sanh Thông, Nguyễn Huỳnh Diệp,
Nguyễn Ngọc Bích,
Nguyễn Phương Viên,
Thanh-Thanh, Trần Nhă
Hoa, Tường Minh,
Vi Khuê, Vơ Đ́nh,
Vũ Đức;
do “Sao” xuất-bản, ở Virginia
(USA);
Vĩnh Liêm
với tập thơ “WITHOUT
BEGINNING WITHOUT END” (Vô Thủy Vô Chung), do Nhà Lulu
xuất-bản năm 2008;
Vơ Đ́nh (Vơ
Đ́nh Mai) phiên-dịch sang Anh-ngữ: tập thơ Thiền của
Thích Nhất Hạnh “Zen Poems of Nhat Hanh”
xuất-bản ở N.
Carolina,
năm 1976; 18 bài thơ thiền từ
chữ Hán “Fragrance of Zen / HƯƠNG THIỀN” ở Los Angeles, năm 1981; (cùng Công Huyền Tôn nữ Nha
Trang)
30 bài
thơ Thiền và Kệ (của các Thiền sư Việt Nam) “MỘt Cành Mai” ở Paris và San
Jose,
California (USA) năm 2005;
*
“WORLD POETRY”
(Thơ Thế-Giới) do “Quality
Paperback Book Club” (Câu-Lạc-Bộ
Sách B́a Mỏng) ở New
York xuất-bản, là
một hợp-tuyển-tập thơ, trong đó có một
số bài do Nguyễn
Ngọc Bích chuyển-ngữ từ tác-phẩm của một số tác-giả
Việt-Nam, từ xưa
như Hồ Xuân Hương,
Khuông Việt, Lê Thánh
Tông, Măn
Giác, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Gia Thiều, Nguyễn Khuyến,
Nguyễn Trăi, Trần
Nhân Tông, Trần
Tế Xương Vạn Hạnh,
đến tiền-chiến (Đệ-Nhị Thế-Chiến) như Thế Lữ,
Tú Mỡ, đến cả những tác-giả mới như
Đoàn Văn Khâm, Hà Thị Thảo, Lê Ngọc
Hiệp, Nguyễn Văn Lạc. Trong
số những nhà thơ kể trên, có một tác-giả c̣n
sống, được
nhiều người chú í, mà lại là thành-viên của
Cộng-Đồng Người Việt Tị-Nạn tại
Hải-Ngoại, đó là Du
Tử Lê.
V.v...
*
Ngoài
các thi-tập và thi-sưu-tập (được in thành sách),
chúng tôi ghi nhận có những bài thơ được sáng-tác trực-tiếp
bằng tiếng Anh và được
in rời-rạc:
*của
Bùi Tiên Khôi, qua giải
“Golden Poet Award”, ở Texas;
*trong
các sưu-tập thơ của Hoa-Ḱ,
do các nhà xuất-bản “The
National (sau này là International)
Library of Poetry” (Thư-Viên Thi-Ca Quốc-Gia/Quốc-Tế)
ở Maryland, “Famous
Poets Society” (Hiệp-Hội
Thi-Nhân Tài-Danh) ở Oregon,
“Who’s Who in New Poets” (Thi-Nhân Tài-Danh Đợt Mới) ở New
York, “Noble
House” (Dưới
Mái Thanh-Tao) ở London,
“PoetryFest”
(Hội Thơ) ở Oregon,
của: Châu Mỹ, Đặng
Nguyệt, Đỗ
Huyền Châu, Hà
Bỉnh Trung, Lê Ái,
Lê Đạt, Lê
Trâm, (Nguyễn) Minh
Viên, Nguyễn
Lương, Nguyễn
Phúc, Nguyễn
Vy Kim Ái, Phạm Henry Tước,
Phạm Kim Khôi, Phạm
Thị Lư, Thanh-Thanh, Trần
Bảo, Trần Thị Diệp,
Trần Văn Trương,
v.v...;
*trong
đặc-san
“WordBridge”
của “The Writers Post” do N. Saomai
chủ-trương, ở Florida, với thơ của: Hoàng Xuân Sơn,
Ngô Đức Diễm, N.Saomai,
Song Nhị, Sông
Hồ, Thanh-Thanh,
Uyển Nicole Dương,
v.v...
*trong
các đặc-san:
“Cỏ Thơm”
của Nguyễn Thị Ngọc Dung ở Virginia,
“Đất Đứng”
của Nhật-Thịnh
và Khuê Dung ở
Sacramento, California; v.v...
*trong
các bán-nguyệt-san “Văn
Nghệ Tiền Phong”
của Hồ Anh ở Virginia,
“Việt Báo”
của Thủy Lâm Synh
ở Chicago; các
tuần-báo “Saigon
Times” của
Thái Tú Hạp,
“Saigon Post”
của Đặng Nguyên Phả
ở Nam California;
lưỡng-tuần-báo
“Thế-Giới
Mới” của Trương Sĩ Lương
ở Texas;
các nguyệt-san:
“Người
Việt” của Trần Thiện Đạt
ở New York, “Thế-Giới
Ngày Nay” của Lê
Hồng Long ở Kansas,
“Suối Văn”
của Ngọc Thủy
ở San Jose; tuần-san “Viet
magazine” của Nguyễn
Châu ở San
Jose, CA; v.v...
Ngoài
ra, c̣n có những
thi-tập tiếng Việt có xen lẫn một vài bài thơ tiếng
Anh do chính tác-giả sáng-tác hay
do người khác chuyển-ngữ
giùm, thí-dụ:
“CHẮP CÁNH THƠ” của Khang
Lang, có bài dịch
của Ngô Đa Thiện, Song
Nhị, Thanh-Thanh;
“CAO NGỌN CỜ VÀNG” của Việt
Tâm, có bài sáng-tác
của tác-giả;
“CƠN ÁC-MỘNG”
của Thanh-Thanh,
có bài sáng-tác
của tác-giả;
“GIỮA D̉NG” của Lê
Nguyễn, có bài dịch
của Ngô Đa Thiện,
Minh Khoa, Phạm
Ngọc, Song
Nhị, Thanh-Thanh, Thu Vân, Vô T́nh;
“NGÀN NĂM GỬI MÂY BAY” của Hồ
Mộng Thiệp, có bài
dịch của Phan
Viết Phùng, Thanh-Thanh;
“RỪNG THU XƯA VẪN NHỚ” của Ngọc
An, có bài dịch của Dư
Phước Long, Ngô
Đa Thiện, Nguyễn
Gia Liên, Phan
Viết Phùng, Thanh-Thanh;
“THƠ VIỆT HẢI-NGOẠI” của Thụy-Cầm
và Dương Huệ Anh,
có bài sáng-tác
của Thanh-Thanh;
“TIẾNG HÓT CỦA LOÀI CHIM DI”
của Song Nhị, có
bài dịch của Ngô Đa
Thiện, Thanh-Thanh, Tony O’Donnell;
“TIẾNG HỜN CHIẾN MĂ” (tái-bản) của Song
Nhị, có bài dịch của Hồ
Thị Tâm, Ngô Đa Thiện,
Thanh-Thanh;
v.v...
*
Bên
cạnh hoạt-động của các nhà thơ đă ra công-chúng,
c̣n có nỗ-lực của những cây bút c̣n ngồi trên
ghế học-đường,
mà thơ của họ được in trên các
nội-san, ít
được phổ-biến ra ngoài.
Cũng
có những nhà thơ mà v́ hoàn-cảnh sinh sống đặc-biệt
ít có cơ-hội tiếp-xúc với các “đồng-nghiệp”
từ phía cộng-đồng gốc Việt,
thí-dụ một số sinh ra, lớn lên, ở lâu,
tiếp-xúc phần lớn thời-gian với người chính gốc sở-tại,
nên đă sinh-hoạt văn-học nghệ-thuật, và thơ,
trong cùng một giới với nhau, thí-dụ: các
Ban Văn-Nghệ & Báo-Chí,
các Hội Sinh-Viên,
tại các trường trung-học, đại-học; các thành-viên của các tổ-chức chính-lưu như Nhà Hát
Lớn, Viện Bảo-Tàng,
Cơ-Sở Văn-Hóa, điển-h́nh là Nhóm Ư Thức
(Friday@5PM) của Liên Trường
Đại-Học Bắc
Cali; Nhóm Thơ slam Mai Piece, ở San
Francisco, CA, gồm có Anh
Đào Đỗ Lê, Bảo
Phi, Jenni Thanh Trang Lê, Long
Nguyễn, và Taylur
Thu Hiền Nguyễn,...
Ngoài
ra, cũng có một số cá-thể
sáng-tác bằng
tiếng Anh: Mong-Lan, Quan Barry...
*
Tưởng
cũng nên nhắc đến các
hoạt-động thơ trên Internet. Đây
là phương-tiện dễ-dàng, nhanh-chóng, rẻ
tiền, nhất là tự-do, để các nhà thơ, dù
đă hay chưa thành-danh, phóng thơ của ḿnh, hoặc
của người khác mà ḿnh ưa thích, qua các diễn-đàn
liên-mạng, ra khắp bốn phương trời. Các
diễn-đàn chú-trọng thơ là: Cây
Me của Đàm
Quang Vinh, Silicon
Band, Việt-Nam Thi-Đàn của Lê Hoàng
Phong, Vui
Cười của Văn Bia, Vườn
Thơ Tao Đàn, v.v...
Có
một số diễn-đàn hoặc tạp-chí ảo,
mở hẳn một mục
thơ thường-trực,
như: Ánh Dương
của
Hoàng Vân; Đặc
Trưng của
Nhật Huy; Đối-Lực (Viet Marketing) của Nguyễn Bá
Long; Gia
My; Giao Mùa
của
Trung Kỳ; Hồn
Quê của Nhật Vũ; Mực Tím
của
Giọt Nắng
và
Diên Vy; Miền
Trung Việt-Nam của
Bùi Ngọc Hiệp; Suối
Nguồn của Thơ
Thơ; Suối
Nguồn Tâm Tư
của
Thiện Doăn; Thời
Nay của Trần Việt Hải và Đạm
Thủy; Thi Uyển của Đặng Hiền; Trinh Nữ;
Văn Học
Nghệ Thuật của
Lan Phạm; Văn
Nghệ Ngàn Phương
của
Tường Vi; Việt
Báo; Việt
Messenger; VietNam
Journal của Đoàn Đức
Tâm; Việt Nam Thư
Quán; Vietnamese Youth;
Viet-USA
của
Tri Nguyen
và
Nguyễn Quang Dinh; VN
Literature; và một
số Web site của các nhà thơ: Bright
Quang; Hà
Huyền Chi (trên
Mạng của Trinh
Nữ và Mạng của Hà Phương Hoài);
Song Nhị (trên Mạng Cơ-Sở Thi+Văn “Cội Nguồn”);
Thanh-Thanh (trên Mạng ThiNhanVietNam
và POETfromVIETNAM),
Trần Trung Đạo,
v.v...
Trên
một số diễn-đàn ảo, mới đây
thỉnh-thoảng có thêm thơ
tiếng Anh sáng-tác của Trúc
Lang.
Trên
Mạng có một danh-mục
các tác-giả và tác-phẩm
do Luân Hoán sưu-tầm;
một “Thư
Viện Việt Nam”
của Tâm Vô Lệ, tập-trung khá nhiều tác-phẩm, trong
đó có thơ, của hầu hết mọi tác-giả
gần xa, từ trước đến nay; v.v...
III
Sách
nói chung, thơ nói riêng, mà được kí-nạp
tại Thư-Viện
của Quốc-Hội Hoa-Kỳ, thư-viện
của các trường đại-học Mĩ
cũng như các nước khác,
là một h́nh-thức và phương-tiện
phổ-biến văn-hóa, nếu không muốn nói là tuyên-truyền,
rất hữu-hiệu.
Hiện
nay, số sách [trong đó có thơ] của Việt-Nam
nội-địa
th́ đă hiện-diện tại các nơi ấy rất
nhiều, trong lúc sách của Cộng-Đồng Người Việt
Tị-Nạn Cộng-Sản
ở Hải-Ngoại
th́ ít hơn.
Riêng
Thư-Viện của Quốc-Hội Hoa-Ḱ
được xem như là thư-viện
chung cho cả hoàn-cầu.
Do
đó, có một số nhà thơ, và nhà xuất-bản,
muốn phổ-biến rộng-răi tác-phẩm của ḿnh,
đă không chỉ trông-cậy vào các buổi tŕnh-mại
sách, các bài giới-thiệu trên báo & đài, các
sạp bày bán, mà c̣n gửi tặng cho càng nhiều thư-viện
càng tốt – hiển-nhiên Thư-Viện
Quốc-Hội Hoa-Ḱ
là nơi lí-tưởng nhất.
Các
thi-sĩ, và nhà xuất-bản mà chỉ lâu lâu mới
xuất-bản một tập thơ, th́ việc có hay không
có kí-nạp sách của ḿnh vào Thư-Viện
Quốc-Hội Hoa-Ḱ,
không thành vấn-đề; nhưng có một số nhà
xuất-bản in sách
thường-xuyên mà
lại không chú-í đến vấn-đề này th́ là
một nhược-điểm. Nhà
xuất-bản “Xây-Dựng”
của Thanh-Thanh, Cơ-Sở
Thi Văn “Cội
Nguồn” của Song Nhị, nhà
xuất-bản “Sao”
của Vi Khuê, th́ có
lưu-tâm đến nơi lưu-trữ bảo-đảm
và trường-cửu ấy cho tác-phẩm của ḿnh; c̣n
“Hội Thơ Tài-Tử
Việt-Nam”
của Như Hoa, nhà
xuất-bản “Phương
Đông” của Dương Huệ Anh,
Tủ Sách “Phụ
Nữ Thời Nay”
của Diễm Châu,
th́ không kí-nạp sách của ḿnh vào kho tàng văn-học
và văn-hóa ấy của toàn-cầu, thật là đáng
tiếc.
Để
giải-quyết vấn-đề này, chúng tôi đề-nghị
các tác-giả, các Hội Văn-Học Nghệ-Thuật, các
nhà xuất-bản, dù là chuyên-nghiệp hay tùy-hứng,
của Người Việt Hải-Ngoại, lưu-í kí-nạp
ấn-phẩm của ḿnh vào Thư-Viện nói trên (v́
có khá nhiều tác-phẩm giá-trị hiện-diện trên
thị-trường mà không có mặt trong thư-viện
ấy).
Riêng
về việc ghi danh vào Thư-Mục
Quốc-Tế và kí-nạp
vào Thư-Viện, xin đề-nghị lập thủ-tục
xin số “ISBN” (International Standard Book Number) và cả
số “LCCN” (Library of Congress Control Number), để người
nghiên-cứu dễ t́m thấy sách của ḿnh trong thư-viện
mênh-mông.
IV
Đă
nói về thơ th́ không thể không nói về thể
thơ, vần thơ.
Thơ Anh
cũng như thơ Việt đều có cả thơ-có-vần
lẫn thơ-không-vần (tức thơ
tự-do, thơ
buông, thơ văn xuôi,
v.v...).
Nh́n
qua các bài tiếng Anh đă có, dù là sáng-tác
trực-tiếp hay phiên-dịch, chúng tôi thấy rơ phần nhiều đều không có vần. Có
thể tác-giả và dịch-giả cho đó là thơ
tự-do; nhưng, theo chúng tôi nghĩ, tuy có h́nh-thức là
câu văn xuôi như nhau, nhưng các câu thơ phải có cái ǵ khác hơn
một đoạn văn xuôi
– v́ nếu chỉ là văn xuôi th́ hóa ra đoạn
văn nào, trong một bài dài, trong một đoạn dài,
mà chỉ cần được ngắt câu xuống hàng,
th́ cũng đều là thơ-không-vần?
Đó là chưa kể, dù là văn xuôi, trong nhiều trường-hợp,
chính các tác-giả là người Mĩ
(Anh, Úc) chính-thống mà cũng c̣n cần phải
được các nhà
viết thuê (ghost-writer)
hiệu-chỉnh, huống ǵ chúng ta đa-số không
phải là dân sinh ra đă nói/viết tiếng Anh,
mà nay lại làm thơ
tiếng Anh. (Xin
xem về nạn dùng sai
chữ, dịch phản nghĩa,
viết trật văn-phạm
tiếng Anh ở
phần dưới).
Tuy nhiên, nói
thế không phải là để chúng ta ngại-ngần
trong việc làm thơ
tiếng Anh
hay dịch thơ tiếng ḿnh sang thơ tiếng Anh.
Xin
đề-nghị các bạn hăy mạnh-dạn sáng-tác trực-tiếp, hoặc đẩy mạnh
việc chuyển-ngữ các tác-phẩm của ḿnh qua tiếng Anh, bắt đầu bằng từng bài một. Có
ai mà không có dịp gặp-gỡ chuyện-tṛ với người
nước ngoài; và nếu ḿnh được
giới-thiệu là một nhà-thơ mà lại có sẵn
cả bản tiếng Anh
để đưa cho họ đọc th́ cả họ
lẫn ḿnh sẽ thích-thú đến ngần nào; huống
hồ đăng lên báo, in thành sách, gửi vào thư-viện
cho mọi người có thể đọc được,
tức là góp phần giới-thiệu văn-học, văn-hóa
của nước ḿnh, đến độc-giả các nước
ngoài.
*
Về
việc phiên-dịch/chuyển-ngữ thơ,
dịch-giả không phải chỉ cần giỏi
tiếng Anh,
mà c̣n cần phải sành
thơ, biết thêm đặc-ngữ, điển-tích,
v.v...
Xin
đơn-cử vài thí-dụ:
1)
Trong cuốn “The
Silence of Yesterday” (Sự Im Lặng của Ngày Hôm Qua)
của “Cội Nguồn”, có
bài thơ tiếng Việt
“Lui Về Tiền Sử” của Khang Lang,
trong đó có đoạn
“Ta,
hề!”
Một
dịch-giả được gọi là học-giả,
đă dịch 2 chữ “Ta, hề”
ra là “It's laughable!” (Nực cười thay!). Người
rành thơ Việt hẳn
biết giai-thoại Kinh Kha với các
câu “Phong
tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn, Tráng sĩ
nhất khứ hề, bất phục hoàn” (Gió hiu hắt
thổi, sông Dịch lạnh, Tráng sĩ ra đi không
trở về). Nhiều thi-sĩ Việt đă dùng
chữ “hề”, thí-dụ Trần
Hoan Trinh trong bài “Tráng Sĩ Hành Ca”:
Vung kiếm ta ca, hề,
Sát Thát
Vỗ gươm ta hát, hề,
Nam chinh
Vẫy súng ta thề, hề,
Bắc phạt
Găy đàn, ta mơ, hề,
thái b́nh...
Có người
Việt-hóa (Nôm-hóa) chữ “hề” thành chữ “chừ”, thí-dụ Minh Đức
dịch bài “Phóng
Cuồng Ngâm”
của Tuệ Trung Thượng Sĩ, với các câu:
Trời
đất liếc trông chừ,
ôi mênh mang!
Chống gậy rong
chơi chừ,
phương ngoài phương
Dạo chốn cao cao
chừ,
mây đỉnh núi
Hoặc nơi sâu sâu
chừ,
nước trùng dương...
Chữ “hề”
ở đây không có nghĩa là “làm
hề”, “như một tên hề”,
mà là một thán-từ (interjection) tương-đương
với “Hey! Ho!”
trong tiếng Anh,
dùng để nhấn mạnh một cảm-xúc, trong các
lời ca, tiếng hát, thí-dụ Ban Nhạc The
Lumineers
của Mĩ
nổi tiếng với bài:
(Ho!)
I've been trying to do it right
(Hey!)
I've been living a lonely life
(Ho!)
I've been sleeping here instead
(Hey!)
I've been sleeping in my bed...
2) Trong
cuốn “Ru
Thầm Tiếng Gọi Việt Nam”
của Ngọc An, có
bài thơ “Biển
Nhớ” trong đó
có câu “Bao
nhiêu hạnh phúc chắt chiu, Đào Nguyên một thuở Nguyễn
Lưu lạc đường”,
mà người dịch, được giới-thiệu là
một giáo-sư tiến-sĩ, đă dịch ra là “So much bliss had been spared, Of a happy land, now Nguyen
Luu lost his way!” lại c̣n chú-thích là: “Nguyen Luu, an imaginary person in a historical myth who
had visited the paradise in Heaven”
(Nguyễn Lưu là một nhân-vật
tưởng-tượng trong thần-thoại
lịch-sử cho rằng ông đă viếng thăm thiên-đường
trên Trời”). Nguyễn Lưu
thực ra là Lưu+Nguyễn,
là hai nhân-vật Lưu
Thần và Nguyễn Triệu,
đời Hán, đă từng
lạc vào Thiên-Thai, chứ không phải là một
ông Nguyễn Lưu.
3) Trong tác-phẩm “cuối đời”
của Hà Huyền Chi, “The Best of Ha Huyen
Chi”, người
dịch, cũng là nhà-thơ/nhà-văn, đă dịch
bừa-băi rất nhiều câu thơ trong nhiều bài thơ.
Vài thí-dụ: Bài
số 591, có câu “Dăm
thùng sách mới nằm say ngủ”,
mà lời dịch là “Some new book boxes do not
open”
(Mấy thùng sách mới không mở ra). “Open”
là một ngoại/tha-động-từ (mở [cái ǵ] ra),
mà “thùng sách”
là tĩnh-vật, không thể làm chủ-từ cho “open”, làm sao tự
mở ra được.
Bài số 592, có câu “Nói ǵ câu đá ṃn sông cạn”, mà lời dịch là “We
no need to talk about the fervid loyalty”. Nếu “need” là danh-từ th́ nó phải là “We don't have the need
to”;
nếu nó là động-từ th́ nó phải là “We
don't need to”;
không thể nói/viết “We
no need”. Bài
594, có câu “Yêu
nhau là chuyện hoang đường, Không yêu đời lăng,
lại thương tiếc đời”, mà lời dịch là “Falling into our affections are a
fabulous story, But if we do not love We will be
regret all our lives”.
Động-danh-từ “falling” là số ít, làm chủ-từ cho “to
be”,
th́ “to be”
phải ở số ít (“is”) chứ không thể ở số
nhiều (“are”);
“to
be”
là động-từ bất-quy-tắc, nếu đứng
trước một động-từ thứ hai, th́ động-từ
thứ hai phải ở thể tiến-hành (“be
regretting”) hoặc quá-khứ phân-từ (It
will be
regretted),...
*
Riêng
về việc sáng-tác trực-tiếp hoặc chuyển-ngữ
thơ Việt
qua tiếng Anh, mà
muốn thành thơ có
vần, chúng tôi xin
các bạn để í một điểm, đó là vần
thơ (rhyme) trong
tiếng Anh.
Lâu
nay, có nhiều bài thơ tiếng Anh
mà tác-giả và dịch-giả người Việt muốn viết ra như-có-vần
nhưng đều thực-sự
không-có-vần.
Tiếng Anh
là tiếng đa-âm,
tiếng Pháp
cũng là tiếng
đa-âm, nhưng
có sự khác nhau
là, trong tiếng Pháp th́ âm
(syllable) nào cũng
được phát-âm (nhấn
giọng) như
nhau, giống như các âm trong các từ đa-âm của
tiếng Việt;
ngược lại, trong tiếng Anh th́ chỉ
có một hoặc một số âm
là được
nhấn giọng (stress,
emphasize), c̣n
các âm khác
th́ không được
nhấn giọng
cho nên không được
xem là một âm trong việc chọn âm để định vần cho
thơ.
Thí-dụ:
“happy”
(Anh)
và “heureux”
(Pháp)
là sướng
thỏa,
“merry”
(Anh)
và “joyeux”
(Pháp)
là hể-hả,
Xét trong
tiếng Việt, th́ “sướng thỏa” và “hể-hả” ăn vần với
nhau, v́ ta dùng các âm
cuối là “thỏa”
và “hả”;
cũng như
trong tiếng Pháp th́ “heureux” và
“joyeux”
ăn vần với nhau,
v́ Pháp dùng
các âm cuối
là “reux”
và “yeux”
để làm vần cho thơ.
C̣n trong
tiếng Anh th́, ngược
lại, v́ các âm
cuối “py”
(trong “happy”) và “ry” (trong “merry”) là âm
không được nhấn giọng,
nên không được dùng làm vần cho thơ;
trong lúc đó th́ “hap” (trong “happy”) và “mer” (trong “merry”) mới là âm
được nhấn giọng,
nhưng chúng lại không ăn vần với
nhau, v́ một bên là
“hap” và một bên là “mer”; do
đó, “happy”
và “merry”
tuy đều tận cùng bằng âm “y”
(py và ry) nhưng v́ “hap”
và “mer”
không ăn vần
với nhau, nên ta không
thể dùng “happy” và “merry”
làm 2 âm cuối-cùng
cho 2 câu thơ có vần.
*
Tóm
lại, chúng ta cần sáng-tác trực-tiếp
hoặc phiên-dịch
hay chuyển-ngữ thơ tiếng Việt
sang tiếng Anh,
để tiếng nói đầy t́nh-tự dân-tộc
của Người Việt
nói chung, của Người Việt Hải-Ngoại nói riêng,
không bị quên lăng, hoặc bị lấn-át bởi
tiếng nói phi-dân-tộc, trước “bốn biển, năm
châu”, trong bối-cảnh toàn-cầu-hóa
mọi
sinh-hoạt hiện nay.
Hội-viên Văn-Bút
Quốc-Tế, PEN America