NGƯỜI VIỆT LÀM THƠ TIẾNG ANH
(THƠ SONG-NGỮ VIỆT–ANH)
bài của Người
Thơ
*
Chúng ta đã bước vào thiên-niên-kỉ thứ ba, và sống trong một thời-đại mà các
sinh-hoạt chính của mỗi nước, và do đó của mỗi người, đều có chiều-hướng toàn-cầu-hóa — nói
nôm-na là mở cửa để tiếp-thu từ toàn-cầu, đồng-thời dấn thân để hòa-nhập vào
toàn-cầu.
Trong hoàn-cảnh đó, thơ là một trong các sinh-hoạt nói trên. Bởi thế, đã có khá
nhiều bài thơ, tập thơ, hợp/tuyển-tập thơ, của khá nhiều nhà thơ, từ tiếng nước
mình được dịch sang tiếng nước ngoài.
Một trong những ngôn-ngữ thông-dụng nhất trên thế-giới hiện nay là tiếng Anh. Cho
nên, ngoài thơ của các tác-giả nói-tiếng-Anh (như Anh, Mĩ, Úc,
Canada,,..)
từ lâu đã có khá nhiều thơ của các người nước khác được dịch sang tiếng Anh.
Trong thời-gian qua, Việt-Nam cũng
đã bắt đầu giới-thiệu thơ của mình với người nước khác, bằng cách sáng-tác
trực-tiếp, hoặc phiên-dịch (hay chuyển-ngữ) từ tiếng Việt sang
tiếng Anh.
Có sáng-tác bằng tiếng Anh hay
phiên-dịch sang tiếng Anh,
thì mới mong được người nước ngoài đọc đến, chia-sẻ với chúng ta những gì mỗi
một nhà thơ, đại-diện phần nào cho tâm-hồn Việt-Nam, dân-tộc Việt-Nam,
dù trong một hoàn-cảnh nhất-định, gửi-gắm trong từng vần điệu thi-ca.
*
Sinh-hoạt thơ tiếng Anh của Người
Việt Hải-Ngoại được
thể-hiện qua hai dòng chính:
· thơ
của các tác-giả
ở trong nước Việt-Nam;
và
· thơ
của các tác-giả
định-cư/tị-nạn cộng-sản ở các nước nói-tiếng-Anh.
I
Về dòng thơ tiếng Anh của Việt-Nam quốc-nội,
ta thấy hầu như chỉ là thơ phiên-dịch (hoặc chuyển-ngữ),
chứ không phải là sáng-tác trực-tiếp
bằng tiếng Anh.
Hiện nay đã có một số thi-tuyển-tập (của nhiều tác-giả) và thi-tập (của một
tác-giả), mà đáng chú í nhất là các ấn-phẩm do nhóm Nguyễn
Bá Chung,
thuộc Trường Đại-Học UMB (University
of Massachusetts)
ở Boston (USA)
ấn-hành:
“MOUNTAIN
AND RIVER”
(Núi Sông, Sông Núi, hoặc Non Sông), do Kevin
Bowen, Nguyễn
Bá Chung,
và Bruce
Weigl phiên-dịch. Thơ
trong tuyển-tập này gồm có những bài được sáng-tác trong khoảng từ
1948 đến 1993,
qua 2 cuộc chiến kháng
Pháp và chống
Mỹ,
từ thơ của Hồ
Chí Minh đến
thơ của Nguyễn
Quang Thiều;
“SIX
VIETNAMESE POETS”
(6 nhà thơ Việt-Nam),
gồm có Lâm
Thị Mỹ Dạ, Nguyễn
Khoa Ðiềm, Xuân
Quỳnh, Ý
Nghi, Nguyễn
Ðức Mau,
và Phạm
Tiến Duật,
mà tác-phẩm được viết trong thời-gian “chống
Mỹ”,
do Kevin
Bowen và Nguyễn
Bá Chung chuyển-ngữ;
“DEDICATED
TO A DREAM”,
“THE
ADVENTURE OF THE PHOENIX”, chuyển-ngữ,
của Lâm
Thị Mỹ Dạ,
chung với Xuân
Quỳnh, Phạm
Tiến Dũng,
và Anh
Thơ,
trong bộ AMERICAN
WAR AND POST-WAR POETRY;
“DISTANT
ROAD”
(Ðường Xa), thơ của Nguyễn
Duy,
do Nguyễn
Bá Chung và Bruce
Weigl phiên-dịch;
“THE
WOMEN CARRY RIVER WATER”
(Các Cô Gánh Nước), thơ của Nguyễn
Quang Thiều,
thuộc thế-hệ sau-1975,
do Martha
Collins và Nguyễn
Quang Thiều chuyển-ngữ.
Nhóm Nguyễn
Bá Chung cũng
giới-thiệu các thi-sưu-tập:
“VIETNAMESE
POETRY FROM THE WARS”
(Thơ Việt Qua Các Cuộc Chiến), một thi-sựu-tập; và “POEMS
FROM CAPTURED DOCUMENTS”
(Thơ Trong Tài-Liệu Ðịch), nguyên-tác và phiên-dịch sang
tiếng Anh những bài thơ lẫn-lộn trong các tài-liệu bắt được (của Cộng-Sản
Việt-Nam).
Nguyễn Bá Chung và
các nhân-vật liên-hệ đều thuộc Trung-Tâm
William Joiner (WJC)
của Trường Đại-Học UMB,
là nhóm chủ-trương viết lại lí-lịch và vị-trí của Người Việt Tị-Nạn Cộng-Sản, mà
lại thuê các nhà văn chịu ảnh-hưởng cộng-sản từ trong nước ra thực-hiện dự-án
nói trên, nên bị cộng-đồng Người
Việt Hải-Ngoại khắp
nơi chống-đối quyết-liệt nhiều năm trước đây...
V.v…
Nói chung, các tập thơ tiếng Anh dịch
từ thơ tiếng Việt ở
trong nước đều được một số nhân-vật hay tổ-chức ở nước ngoài mà có thiện-cảm
với Việt-Nam nội-địa phiên-dịch
và ấn-hành. Nội-dung tổng-quát là để đề-cao
cộng-sản Việt-Nam,
dù có những bài “vô thưởng, vô phạt” thì cũng là để chứng-tỏ
rằng công-việc sáng-tác hiện nay ở Việt-Nam đã
được tự-do (?).
(Nhân đây chúng tôi cũng kể thêm SPRING
ESSENCE (Hương
Xuân, tức Xuân Hương), gồm có một số bài thơ của nữ-sĩ Hồ
Xuân Hương,
do John
Balaban,
giáo-sư thi-sĩ người Mĩ,
ở North
Carolina,
giới-thiệu. Hồ
Xuân Hương là
của dân-tộc Việt-Nam,
chứ không thuộc riêng hàng-ngũ của các nhà thơ hiện nay ở Việt-Nam;
nhưng chúng tôi tạm kê vào đây để ghi nhận việc làm của thi-sĩ Mĩ này,
đã tìm-tòi và trân-quý những vần thơ có giá-trị trường-cửu của Việt-Nam,
một cách khách-quan và vô-tư, chứ không có hậu-í hay mưu-đồ gì như ai kia.)
Ðiều đặc-biệt là tất cả các ấn-phẩm ấy đều đã được kí-nạp vào thư-viện Quốc-Hội
Hoa-Kì,
và một số thư-viện các trường đại-học ở Mĩ và
ở các nơi khác, do có chính-sách của nhà cầm quyền từ trong nước, hoặc
chủ-trương của các giới-chức chuyên-môn liên-quan ở nước ngoài.
II
Về dòng thơ tiếng Anh của Người
Việt Hải-Ngoại,
ta thấy có hai nguồn song-song:
· thơ trực-tiếp sáng-tác bằng
tiếng Anh,
và
· thơ phiên-dịch hay chuyển-ngữ sang
tiếng Anh.
Thơ trực-tiếp sáng-tác
bằng tiếng Anh thì
được phổ-biến qua ba con đường: đăng-tải rời-rạc, in chung trong các
sưu/tuyển-tập, và xuất-bản thành tập riêng.
Vì là thơ sáng-tác bằng tiếng Anh,
nên các tác-giả đã đi
thẳng vào các tạp-chí
thi-ca của Mĩ,
các diễn-đàn/nhà-mạng
thi-ca của Mĩ thực-hiện
trên mạng lưới thông-tin toàn-cầu, các sưu/tuyển-tập
thơ quốc-tế của Mĩ, Anh;
cũng như xuất-bản
thành tập theo
cung-cách của phương Tây.
Riêng thơ
tiếng Anh đã
được ấn-hành thành tập,
thì ta thấy có các tác-giả và dịch-giả cũng như tuyển-tập sau đây:
BARBARA TRAN với
thi-tập sáng-tác “IN
THE MYNAH BIRD’S OWN WORDS”
xuất-bản ở Hoa-Kì năm
2002;
BRIGHT QUANG với
các thi-tập sáng-tác “POETRY
AND ART”
ấn-hành ở Redwood
City,
Bắc California (USA)
năm 1998, “MY
TORCH”
(Ngọn Ðuốc của Tôi) năm 2003;
CAO NGUYÊN với
thi-tập song-ngữ “NHÀ
VIỆT NAM”
(VIETNAM
MY HOMELAND)
do Nguyễn Hữu Thời chuyển-ngữ và Về
Nguồn ở Virginia,
USA xuất-bản năm 2017;
CHRISTINE SA với
thi-tập sáng-tác “THE
PARTING YEAR”
xuất-bản ở Toronto,
Canada;
DU TỬ LÊ với
một số
thi-tập: “HOA
NÀO TIN QUẢ ÐẮNG ÐẾN KHÔNG NGỜ / FLOWERS CAN’T BELIEVE FRUITS WOULD GROW THAT
BITTER”
do Như
Hạnh, Nhan
Chung chuyển-ngữ,
xuất-bản ở Mĩ man
1999, “TRUỜNG
KHÚC MẸ VỀ BIỂN ĐÔNG/ TRIBUTES TO MOTHER ON HER WAY HOME VIA PACIFIC OCEAN”
do Thiên
Nhất Phương và Trần
Lệ Khánh chuyển-ngữ,
năm 2002, v.v...;
ĐINH LINH với
các thi-tập sáng-tác “ALL
AROUND WHAT EMPTIES OUT”
xuất-bản năm 2004, “AMERICAN
TATTS”
năm 2005, “BORDERLESS
BODIES”
năm 2006;
ĐỖ VINH [Joseph Đỗ
Vinh Tài]
với thi-tập sáng-tác “GREEN
PLUMS“
xuất-bản ở California (USA)
năm 2005;
“FLOWERS
OF LOVE / FLEURS D’AMOUR”
(Cụm Hoa Tình Yêu), tuyển-tập tam-ngữ Việt-Anh-Pháp, sáng-tác trực-tiếp lẫn chuyển-ngữ,
Tập I (40 tác-giả), Tập II (45 tác-giả), Tập III (66 tác-giả); Tập IV (32
tác-giả); với các tác-giả
tiếng Anh: Ðình
Duy Phương, Doan
Nam Nhan, Hoài
Việt, Hoàng
Hoa, Hồng
Phương, Hương
Nam, Kim
Phuong Tran, Lê
Khắc Lý, Lê
Sỹ Ðông, Lê
Trọng Nghĩa, Le
Van Ba, Lưu
Hoài, Lưu
Trần Nguyễn, Ly
Châu, Như-Hoa, Nguyễn
Phúc Sông Hương, Nguyễn
Thị Sen Trắng, Nguyễn
Thùy Linh, Paul
Cao, Phạm
Ngọc, Phạm
Nhã Dự, Thanh-Thanh,
Thu-Vân, Tina Thanh Hương, Trac
Pham, Trần
Tịnh Như, Tyna, Vinh
Hồ,;
với các dịch-giả: Ali
Smaoui, Be
Davison Herrera, Charles
Nguyen, Christopher
Vũ, Du
Phước Long, Duy
Tường, Ðào
Thanh Khiết, Elsie
Whitlow Feliz, Hoài
Việt, Huỳnh
Sanh Thông, Joyce
Odam, Lê
Cao Phan, Lê
Sỹ Ðông, Ngọc
Nguyệt, Ngô
Ða Thiện, Nguyễn
Ðại Thanh, Nguyễn
Ðắc Khoa, Nguyễn
Trọng Bình, Nhã
Dự, Như
Hoa, Nhựt
Nguyệt, Phạm
Ngọc, Phạm
Phan Thị Bạch Nga, Thanh-Thanh,
Thu Vân, Trần
Minh Hiền, Vo
Tinh, Võ
Thị Xuân Hiệp, Vũ
Ðức Tô Châu, Vũ
Lang, Ý
Nga;
do “Hội
Thơ Tài-Tử Việt-Nam”
của Như-Hoa Lê
Quang Sinh ấn-hành,
ở Sacramento,
Bắc California (nay
đã dời qua Dallas, Texas),
USA;
HÀ HUYỀN CHI với
tập thơ song-ngữ
“SHARPENING
THE SWORD ON THE SIDELINE”
(Bên Trời Mài Kiếm) do Ngô
Ðình Chương phiên-dịch, Ðàm
Trung Pháp hiệu-đính,
ấn-loát ở Washington,
và “THE
BEST OF HA HUYEN CHI” do Binh
Nhung phiên-dịch;
xuất-bản ở Hoa-Kì;
HẠ ÁI KHANH với
thi-tập “SPEECHLESS
(NGHẸN NGÀO)” sáng-tác và
tự chuyển-ngữ dưới
bút-danh Dien
Viet Duong [Dương
Viết Điền], xuất-bản
năm 1998;
HOA NGUYEN với
các thi-tập sáng-tác “YOUR
ANCIENT SEE THROUGH” năm
2002, “AS
LONG AS TREES LAST” xuất-bản
tại Hoa-Kì năm
2012, “HECATE
LOCHIA” năm
2012, RED
JUICE năm
2014;
HOÀNG DU THỤY trong
các tuyển-tập sáng-tác:
“A
BREAK IN THE CLOUD” xuất-bản
năm 1993, và “DANCE
ON THE HORIZON”
năm 1994;
HOÀNG NGỌC VĂN với
thi-tập sáng-tác và tự chuyển-ngữ “CUỘC
ĐỜI (ONE'S LIFE)”
ra mắt tại San
Jose,
California (USA);
HUYỀN CHƯƠNG QUÝ với
tập thơ tự chuyển-ngữ “KHÁT
VỌNG TỰ DO”
(The War and The Americas in My Country);
HUỲNH SANH THÔNG biên-khảo phiên-dịch “AN
ANTHOLOGY OF VIETNAMESE POEMS - FROM THE ELEVENTH THROUGH THE TWENTIETH
CENTURIES”
xuất bản ở New
Haven, Connecticut (USA)
và London (Anh);
HƯƠNG CAU CAO TẦN với
tập thơ song-ngữ “CÁC
BÀI THƠ KHÓ QUÊN – UNFORGETTABLE VIETNAMESE POEMS”. Sách
dày khoảng 300 trang, gồm có 100 bài thơ, của 16 tác-giả, qua nhiều thời-kì (từ
Bà Huyện Thanh Quan đến Nguyên Sa), được in song-hành để dễ-dàng đối-chiếu,
xuất-bản từ Canada vào
cuối năm 2021;
JOSEPH DO VINH TAI với
các tập thơ Mĩ-Việt sáng-tác và chuyển-ngữ “GREEN
PLUMS” (Đào
Non) “APOLOGIES
TO THE MOON”
(Tạ Tội Cùng Trăng), do Broken-Heart
Press ấn-hành
năm 2008;
KHẾ IÊM với
tác-phẩm “BLANK
VERSE (THƠ KHÔNG VẦN)”
cùng Đỗ
Vinh phiên-dịch ấn-hành
ở California (USA)
năm 2006;
với tác-phẩm “Khe
Iem’s Selected Poems”,
ấn-bản song-ngữ Việt–Anh,
dày 242 trang, mà nhan-đề tiếng Việt là
Thơ Khác,
và phần đầu do
J. Do Vinh
dịch sang tiếng
Anh,
nhưng từ trang 215 thì chỉ có phần tiếng
Việt,
do Nhóm
Tân Hình Thức
ở
Garden Grove,
CA, USA, xuất-bản năm 2011;
KIM VŨ với
các thi-tập Việt-Anh sáng-tác và tự chuyển-ngữ “SUCH
IS MY LOVE, SWEETHEART”
(Tình Anh Như Thế Ðấy), WHEN
I LOVE YOU”
(Khi Yêu Em); và các tuyển-tập “VIETNAMESE
POETRY: A SAMPLER”
(Việt Nam: Những Áng Thơ Tuyệt Tác), “THE
FINEST PIECES OF MODERN VIETNAMESE POETRY”
(Những Áng Thơ Tuyệt Tác Hiện Ðại) do Kim
Vũ phiên-dịch,
tự xuất-bản, ở San
Jose,
Bắc California,
(USA);
LẠI THANH HÀ sáng-tác “INSIDE
OUT & BACK AGAIN”
(Đi Rồi Lại Về) tiểu-thuyết bằng 121 bài thơ, xuất-bản năm 2011;
LÊ PHẠM LÊ với
các thi-tập sáng-tác “FROM
WHERE THE WIND BLOWS”
(Gió Thổi Phương Nào) và “WAVES
BEYOND WAVES”
ấn-hành ở San
Francisco,
Bắc California (USA);
LÊ THỊ THẤM VÂN (Lê
Thị Hoàng Mai) với thi-tập sáng-tác “YELLOW
LIGHT”
xuất-bản năm 1998;
LÊ VĂN TÀI với
tuyển-tập sáng-tác “EMPTY
ARMS SURROUNDED BY WARM BREATH”
ra mắt năm 1987;
LINH ÐINH (Ðinh
Hoàng Linh)
với các tác-phẩm sáng-tác “DRUNKARD
BOXING”
(Võ Say) xuất-bản năm 1998, “A
SMALL TRIUMPH OVER LASSITUDE”,
“A
GLASS OF WATER”,
đều ở Philadelphia, Pennsylvania (USA),
năm 2001;
“LOVE
POEMS”
(Thơ Tình), tuyển-tập chuyển-ngữ,
xuất-bản ở Nam California (USA);
MAI NGUYÊN với
tuyển-tập-thơ sáng-tác và phiên-dịch “VAP”
(?);
MINH VIÊN với
các thi-phẩm “THE
UNHEALED WOUND”
(Vết Thương Chưa Lành), “A
NIGHTMARE WAR”
(Cuộc Chiến Ác-Mộng), “BLUE
RAIN”
(Mưa Xanh), sáng-tác,
ấn-hành ở San
Francisco,
Bắc California,
Hoa-Kì, v.v...;
MỘNG LAN với
thi-tập sáng-tác “SONG
OF THE CICADAS”
xuất-bản ở Massachusetts (USA)
năm 2001;
NGÔ ÐÌNH CHƯƠNG với
“QUIET
ALLEY IN THE EVENING”
(Chiều Ðêm Xóm Vắng), song-ngữ, do tác-giả sáng-tác và
tự chuyển-ngữ,
ấn-hành ở San
Jose,
Bắc California (USA);
NGÔ TẰNG GIAO tự chuyển-ngữ các
tập thơ “MƯA
XUÂN”
ấn-hành năm 2000, “HƯƠNG
MÙA VU LAN”
năm 2007;
NGUYỄN CHÍ THIỆN với
các tác-phẩm được Nguyễn
Ngọc Bích phiên-dịch sang
tiếng Anh: “NGỤC
CA / PRISON SONGS”
xuất-bản năm 1982, “HOA
ĐỊA NGỤC / THE FLOWERS OF HELL” năm
1996, “HẠT
MÁU THƠ / BLOOD SEEDS BECOME POETRY” năm
1996;
NGUYỄN ĐỖ với
hợp-tuyển-tập “THƠ
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI”
cùng Paul
Hoover chuyển-ngữ,
do University of Iowa ấn-hành;
NGUYỄN HỮU LÝ đã chuyển-ngữ và
cho ra đời các tác-phẩm: “TÌNH
MẸ TRONG THƠ VIỆT NAM:
Collection of Poems on Motherly Love”,
“QUÊ
HƯƠNG QUA THI CA:
Anthology of Homeland in Vietnamese Poetry and Songs”,
“XUÂN
VÀ TUỔI TRẺ VIỆT NAM:
Anthology of Springs and Youth of Vietnam”, do Nhóm
Văn Hóa Pháp-Việt ở Paris giới-thiệu,
và “NHỮNG
CON ĐƯỜNG LƯU VONG:
Les Sentiers de l'Exile - The Paths of Exile”, do Hội
Thơ Tài Tử Việt Nam của Như
Hoa phổ-biến;
NGUYỄN MẠNH QUANG với
“A
POEM FOR MY CHILDREN”
(Bài Thơ Cho Con) do tác-giả sáng-tác và
tự chuyển-ngữ,
xuất-bản ở Tacoma, Washington (USA);
NGUYỄN NGỌC BÍCH với
các tác-phẩm biên-khảo và phiên-dịch:
“THE
POETRY OF VIETNAM”
xuất-bản năm 1969, “A
THOUSAND YEARS OF VIETNAMESE POETRY”
năm 1975, “A
MOTHER’S LULLABY”
(“Trường Ca Lời Mẹ Ru” của Trương
Anh Thụy)
năm 1989, “THE
FLOWERS OF HELL”
(“Hoa Ðịa Ngục” của Nguyễn
Chí Thiện)
năm 1995, “BLOOD
SEEDS BECOME POETRY” (“Hạt
Máu Thơ” của Nguyễn
Chí Thiện)
năm 1996, v.v...;
NGUYEN, NHIEN D. (sau tên có ghi “M.D.”) với
tác-phẩm “CAT PARADISE: 230 SELECTED CAT POEMS”
(THIÊN ĐƯỜNG CỦA LOÀI MÈO) gồm có 115
bài thơ tiếng Anh và 115 bài thơ tiếng
Việt, xuất-bản năm 2019;
NGUYỄN PHÚC SÔNG HƯƠNG (Thái
Luân) với “AMONG
PEOPLE”
(Giữa Những Con Người), sáng-tác trực-tiếp,
xuất-bản ở Sacramento,
Bắc California (USA)
năm 1995;
NHƯ-HOA Lê
Quang Sinh với
“THE
OLD DAYS / LE VIEUX TEMPS”
(“Chuyện Ngày Xưa”), thi-tập tam-ngữ Việt-Anh-Pháp, với các dịch-giả: Duy
Tường, Lê
Sỹ Ðông, Như
Hoa, Thanh-Thanh,
Thu Vân;
do “Hội
Thơ Tài-Tử Việt-Nam Quốc-Tế”
xuất-bản, ở Sacramento,
Bắc California (USA);
OCEAN VƯƠNG tức Đại
Dương với
các thi-tập sáng-tác “BURNING”
xuất-bản năm 2010, “NO”
năm 2013, “NIGHT
SKY WITH EXIT WOUNDS”
năm 2016, v.v...;
PHAN NHIÊN HẠO với
các thi-tập sáng-tác “PARADISE
OF PAPER BELLS” xuất-bản
năm 1998, “MANUFACTURING
POETRY” năm
2004, v.v...;
SONG HỒ (Nguyen
Thanh Dam) với “ROCK
AND FLOWER” tự phiên-dịch từ
“Đá
và Hoa”
(1992), xuất-bản năm 2000;
SÓNG VIỆT-ĐÀM GIANG với
“TÌNH CÒN SAY - FOREVER LOVE” do tác-giả ở Memphis, Tennessee (USA),
xuất-bản năm 2005, giới-thiệu 77 bài thơ của mình với 77 bài dịch sang tiếng Anh
của Thomas
D. Le,
cùng với 21 bài thơ của mình với 21 bài dịch sang tiếng Anh do chính cô tự
thực-hiện;
THANH LAN (ca-sĩ,
diễn-viên) với tập thơ “TÌNH
ĐẦU”
xuất-bản tại Hoa-Kỳ năm 2002 gồm có 80 bài thơ tiếng Việt,
đồng-thời với 2 phiên-bản bằng tiếng Anh và
tiếng Pháp do
chính Thanh Lan chuyển-ngữ;
THANH-THANH (Nhuan
Xuan Le) với “POEMS
BY SELECTED VIETNAMESE”
do Xây-Dựng xuất-bản
năm 2005, “VIETNAMESE
CHOICE POEMS”
(tuyển-tập 146 bài thơ tiếng Anh,
dịch từ nguyên-tác thơ tiếng Việt của 81 tác-giả
hiện sống tại Mĩ, Gia-Nã-Đại, Úc, Pháp, Đức, Bỉ, Na-Uy, Việt-Nam),
là tập-hợp nhiều nhất số thi-sĩ và số bài dịch sang thơ Anh,
do Nhà Xlibris ở Indiana (USA)
xuất-bản năm 2013; được Nhà Tổng-Phát-Hành Amazon đưa
vào danh-sách “Favorite
Books of the Year”
trong Mục “Best
Books of 2014”;
và “DRAGON
& FAIRY IN POETRY”
do Xây-Dựng xuất-bản, Lulu ấn-hành
năm 2021, là tuyển-tập 102 bài
thơ tiếng Anh dịch
từ nguyên-tác tiếng Việt của 70 tác-giả
khác, sống tại 8 quốc-gia trên thế-giới;
“THE
SILENCE OF YESTERDAY”
(Sự Im-Lặng của Ngày Hôm Qua), song-ngữ, sáng-tác trực-tiếp
lẫn chuyển-ngữ,
của 22 tác-giả, với các tác-giả tiếng Anh: Ngô
Ðức Diễm, Ngô
Ða Thiện, Nguyễn
Phúc Sông Hương, Phạm
Ngọc, Song
Nhị, Thanh-Thanh,
Ý Yên;
với các dịch-giả: Hoài
Vân Tử, Huỳnh
Sanh Thông, Ngô
Ða Thiện, Nguyễn
Ngọc Bích, Nguyễn
Phúc Sông Hương, Phạm
Ngọc, Song
Nhị, Thanh-Thanh,
Thy Vũ, Vĩnh
Sinh, Vi-Khuê,
Võ Ðình, Ý
Yên;
do “Cơ-Sở
Thi Văn Cội Nguồn”
của Song
Nhị và Diên
Nghị giới-thiệu,
ấn-hành ở San
Jose,
Bắc California (USA);
THOAI Q. TRAN (Trần
Quý Thoại) có
các thi-tập sáng-tác:
“RANDOM
THOUGHTS” xuất-bản
năm 2000), “QUE
SERA năm
2001, “REFLECTIONS” năm
2001;
“TÌNH
YÊU, CUỘC SỐNG VÀ LƯU ĐÀY (LOVE, LIFE, and... ”) thơ
Việt-Anh;
TRANG ĐÀI GLASSEY-Trầnguyễn với
3 tập thơ: “ANH
HOA”
Anh-Việt tự chuyển-ngữ,
ấn-hành ở Saigon năm
1967, tái-bản ở Mĩ năm
2005; “MARS&
VENUS” sáng-tác,
ở Hoa
Kì năm
2001; “IN
HARMONY” sáng-tác,
ở Hoa
Kì năm
2008;
TRẦN MỘNG TÚ với
2 bài thơ “THE
GIFT IN WARTIME” (Quà
Tặng Trong Chiến Tranh) và “DREAM
OF PEACE” (Giấc
Mơ Hòa Bình) do Vann
Phan phiên-dịch sang
Anh-ngữ; bài trước được in trong “American
Literature Textbook”
(sách giáo-khoa, của nhà xuất-bản Mĩ Glencoe/Mc.Gnaw-Hill),
bài sau được in trong “Vision
of War, Dream of Peace”
là tuyển-tập thơ của các cựu Nữ Quân-Nhân và Y-Tá phục-vụ trong Chiến-Tranh
Việt-Nam;
TRÚC LANG [Vĩnh
Đỗ]
với thi-tập sáng-tác “SEA
AND SKY”
do Ngày
Nay xuất-bản
năm 2005;
TRƯƠNG ANH THỤY với
thi-tập song-ngữ “GỬI
MƯA CHO NẮNG”
tự chuyển-ngữ sang
tiếng Anh;
VI KHUÊ với
“POEMS
IN RAIN & FLOWERS”
(Thơ Trong Mưa & Hoa), thi-tập song-ngữ, với các dịch-giả: Bernard
Detrez, Chử
Nhất Anh, Chử
Nhị Anh, Huỳnh
Sanh Thông, Nguyễn
Huỳnh Diệp, Nguyễn
Ngọc Bích, Nguyễn
Phương Viên, Thanh-Thanh,
Trần Nhã Hoa, Tường
Minh, Vi
Khuê, Võ
Ðình, Vũ
Ðức;
do “Sao”
xuất-bản, ở Virginia (USA);
VĨNH LIÊM với
tập thơ “WITHOUT
BEGINNING WITHOUT END” (Vô
Thủy Vô Chung), do Nhà Lulu xuất-bản
năm 2008;
VÕ ÐÌNH (Võ
Ðình Mai) phiên-dịch sang
Anh-ngữ: tập thơ Thiền của Thích
Nhất Hạnh “ZEN
POEMS OF NHAT HANH” xuất-bản
ở N. Carolina,
năm 1976; 18 bài thơ thiền từ chữ Hán “FRAGRANCE
OF ZEN / HƯƠNG THIỀN” ở Los
Angeles,
năm 1981; (cùng Công
Huyền Tôn nữ Nha Trang) 30
bài thơ Thiền và Kệ (của các Thiền sư Việt
Nam)
“MỘT
CÀNH MAI” ở Paris và San
Jose,
California (USA) năm 2005;
VŨ HỐI có
tập thơ “VẦN
THƠ MÀU TRẮNG” (La
Póesie de Couleur Blanche) phiên-dịch sang
Anh- và Pháp-ngữ, xuất-bản tại Sài-Gòn năm
1959;
VƯƠNG
THANH với
tác-phẩm “A
GARDEN OF VIETNAMESE LYRICS AND POETRY”
(Một Khu Vườn Thơ Nhạc Việt Nam) Volume 1, Bilingual Edition, November 2019.
Sách dày 562 trang, gồm có một số bài nhạc quen-thuộc của một số nhạc-sĩ
tên-tuổi cùng với một số bài thơ nổi tiếng của một số nam+nữ thi-sĩ Việt-Nam từ
xưa đến nay, và đặc-biệt là một số bài thơ của chính Vương Thanh, cả thơ tự-do
lẫn thơ Đường-luật. Tác-giả sưu-tập và dịch sang tiếng Anh.
*
“WORLD
POETRY”
(Thơ Thế-Giới) do “Quality
Paperback Book Club”
(Câu-Lạc-Bộ Sách Bìa Mỏng) ở New
York xuất-bản,
là một hợp-tuyển-tập thơ, trong đó có một số bài do Nguyễn
Ngọc Bích chuyển-ngữ từ
tác-phẩm của một số tác-giả Việt-Nam,
từ xưa như Hồ
Xuân Hương, Khuông
Việt, Lê
Thánh Tông, Mãn
Giác, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Gia Thiều, Nguyễn
Khuyến, Nguyễn
Trãi, Trần
Nhân Tông, Trần
Tế Xương Vạn Hạnh,
đến tiền-chiến (Ðệ-Nhị
Thế-Chiến) như Thế
Lữ, Tú
Mỡ,
đến cả những tác-giả mới như Ðoàn
Văn Khâm, Hà Thị Thảo, Lê
Ngọc Hiệp, Nguyễn Văn Lạc. Trong
số những nhà thơ kể trên, có một tác-giả lúc đó còn
sống,
được nhiều người chú í, mà lại là thành-viên của Cộng-Ðồng Người Việt Tị-Nạn tại
Hải-Ngoại, đó là Du
Tử Lê.
V.v...
*
Ngoài các thi-tập và thi-sưu-tập (được in thành sách), chúng tôi ghi nhận có
những bài thơ được sáng-tác trực-tiếp
bằng tiếng Anh và được in
rời-rạc:
*của BÙI
TIÊN KHÔI,
qua giải “Golden
Poet Award”,
ở Texas;
*trong các sưu-tập
thơ của Hoa-Kì,
do các nhà xuất-bản “THE
NATIONAL (sau
này là INTERNATIONAL) LIBRARY
OF POETRY”
(Thư-Viên Thi-Ca Quốc-Gia/Quốc-Tế) ở Maryland,
“FAMOUS
POETS SOCIETY”
(Hiệp-Hội Thi-Nhân Tài-Danh) ở Oregon,
“WHO’S
WHO IN NEW POETS”
(Thi-Nhân Tài-Danh Ðợt Mới) ở New
York,
“NOBLE
HOUSE”
(Dưới Mái Thanh-Tao) ở London,
“POETRYFEST”
(Hội Thơ) ở Oregon,
của: Châu
Mỹ, Ðặng
Nguyệt, Ðỗ
Huyền Châu, Hà
Bỉnh Trung, Lê
Ái, Lê
Ðạt, Lê
Trâm,
(Nguyễn) Minh
Viên, Nguyễn
Lương, Nguyễn
Phúc, Nguyễn
Vy Kim Ái, Phạm
Henry Tước, Phạm
Kim Khôi, Phạm
Thị Lý, Thanh-Thanh, Trần
Bảo, Trần
Thị Diệp, Trần
Văn Trương,
v.v...;
*trong đặc-san “WORDBRIDGE”
của “THE
WRITERS POST”
do N.
Saomai chủ-trương,
ở Florida,
với thơ của: Hoàng
Xuân Sơn, Ngô
Ðức Diễm, N.Saomai, Song
Nhị, Sông
Hồ, Thanh-Thanh, Uyên
Nicole Dương,
v.v...
*trong các
đặc-san:
“CỎ
THƠM”
của Nguyễn
Thị Ngọc Dung ở Virginia,
“ÐẤT
ÐỨNG”
của Nhật-Thịnh và Khuê
Dung ở Sacramento,
California; v.v...
*trong các bán-nguyệt-san “VĂN
NGHỆ TIỀN PHONG”
của Hồ
Anh ở Virginia,
“VIỆT
BÁO”
của Thủy
Lâm Synh ở Chicago; các
tuần-báo “SAIGON
TIMES”
của Thái
Tú Hạp,
“SAIGON
POST”
của Ðặng
Nguyên Phả ở
Nam California; lưỡng-tuần-báo “THẾ-GIỚI
MỚI”
của Trương
Sĩ Lương ở Texas; các
nguyệt-san:
“NGƯỜI
VIỆT”
của Trần
Thiện Ðạt ở New
York,
“THẾ-GIỚI
NGÀY NAY”
của Lê
Hồng Long ở Kansas,
“SUỐI
VĂN”
của Ngọc
Thủy ở San
Jose; tuần-san “VIET
MAGAZINE”
của Nguyễn
Châu ở San
Jose,
CA; v.v...
Ngoài ra, còn có những
thi-tập tiếng Việt có
xen lẫn một số bài thơ
tiếng Anh do
chính tác-giả sáng-tác hay
do người khác dịch,
chuyển-ngữ giùm,
thí-dụ:
“CÒN
LẠI CHÚT TÌNH” của Nguyễn
Phú Long,
có bài dịch của Thanh-Thanh;
“CAO
NGỌN CỜ VÀNG”
của Việt
Tâm,
có bài sáng-tác của
tác-giả;
“CHẮP
CÁNH THƠ”
của Khang
Lang,
có bài dịch của Ngô
Ða Thiện, Song
Nhị, Thanh-Thanh;
“CƠN
ÁC-MỘNG”
của Thanh-Thanh,
có bài sáng-tác của
tác-giả;
“GIỮA
DÒNG”
của Lê
Nguyễn,
có bài dịch của Ngô
Ða Thiện, Minh
Khoa, Phạm
Ngọc, Song
Nhị, Thanh-Thanh,
Thu Vân, Vô
Tình;
“NGÀN
NĂM GỬI MÂY BAY”
của Hồ
Mộng Thiệp,
có bài dịch của Phan
Viết Phùng, Thanh-Thanh;
“RU
THẦM TIẾNG GỌI VIỆT NAM” của Ngọc
An,
có bài dịch của Thanh-Thanh;
“RỪNG
THU XƯA VẪN NHỚ”
của Ngọc
An,
có bài dịch của Dư
Phước Long, Ngô
Ða Thiện, Nguyễn
Gia Liên, Phan
Viết Phùng, Thanh-Thanh;
“SUỐI
NGUÒN TÂM THỨC” của Thái
Tú Hạp,
có bài dịch của Thanh-Thanh;
“THƠ
VIỆT HẢI-NGOẠI”
của Thụy-Cầm và Dương
Huệ Anh,
có bài sáng-tác của Thanh-Thanh;
“TIẾNG
HÓT CỦA LOÀI CHIM DI”
của Song
Nhị,
có bài dịch của Ngô
Ða Thiện, Thanh-Thanh,
Tony O’Donnell;
“TIẾNG
HỜN CHIẾN MÔ
(tái-bản) của Song
Nhị,
có bài dịch của Hồ
Thị Tâm, Ngô
Ða Thiện, Thanh-Thanh;
“TUYỂN-TẬP
THƠ LÊ
MAI”
của Lê Mai, có bài dịch của Thanh-Thanh;
“VIET
PEN” của “Trung
Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại” qua Yên
Sơn, có
bài dịch của Thanh-Thanh;
V.v...
*
Bên cạnh hoạt-động của các nhà thơ đã ra công-chúng,
còn có nỗ-lực của những cây bút còn ngồi trên
ghế học-đường,
mà thơ của họ được in trên các nội-san,
ít được phổ-biến ra ngoài.
Cũng có những nhà thơ mà vì hoàn-cảnh sinh sống đặc-biệt ít có cơ-hội tiếp-xúc
với các “đồng-nghiệp” từ phía cộng-đồng gốc Việt,
thí-dụ một số sinh ra, lớn lên, ở lâu, tiếp-xúc phần lớn thời-gian với người chính
gốc sở-tại,
nên đã sinh-hoạt văn-học nghệ-thuật, và thơ, trong cùng một giới với nhau,
thí-dụ: các
Ban Văn-Nghệ & Báo-Chí, các
Hội Sinh-Viên,
tại các
trường trung-học, đại-học;
các thành-viên của các
tổ-chức chính-lưu như Nhà
Hát Lớn, Viện
Bảo-Tàng, Cơ-Sở
Văn-Hóa,
điển-hình là NHÓM
Ý THỨC (Friday@5PM)
của Liên
Trường Ðại-Học Bắc
Cali; NHÓM
THƠ SLAM MAI PIECE,
ở San
Francisco,
CA, gồm có Anh
Ðào Ðỗ Lê, Bảo
Phi, Jenni Thanh Trang Lê, Long
Nguyễn, và Taylur
Thu Hiền Nguyễn,...
Ngoài ra, cũng có một số cá-thể
sáng-tác bằng
tiếng Anh: Mong-Lan, Quan
Barry...
*
Tưởng cũng nên nhắc đến các
hoạt-động thơ trên Internet. Ðây
là phương-tiện dễ-dàng, nhanh-chóng, rẻ tiền, nhất là tự-do, để các nhà thơ, dù
đã hay chưa thành-danh, phóng thơ của mình, hoặc của người khác mà mình ưa
thích, qua các diễn-đàn liên-mạng, ra khắp bốn phương trời. Các diễn-đàn
chú-trọng thơ là: CÂY
ME của Ðàm
Quang Vinh, SILICON
BAND, VIỆT-NAM
THI-ÐÀN của Lê
Hoàng Phong, VUI
CƯỜI của Văn
Bia, VƯỜN
THƠ TAO ÐÀN,
v.v...
Có một số diễn-đàn hoặc tạp-chí ảo, mở hẳn một mục
thơ thường-trực,
như: ÁNH
DƯƠNG của Hoàng
Vân; ÐẶC
TRƯNG của Nhật
Huy; ÐỐI-LỰC (Viet
Marketing) của Nguyễn
Bá Long; GIA
MY; GIAO
MÙA của Trung
Kỳ; HỒN
QUÊ của Nhật
Vũ; MỰC
TÍM của Giọt
Nắng và Diên
Vy; MIỀN
TRUNG VIỆT-NAM của Bùi
Ngọc Hiệp; SUỐI
NGUỒN của Thơ
Thơ; SUỐI
NGUỒN TÂM TƯ của Thiện
Doãn; THỜI
NAY của Trần
Việt Hải và Ðạm
Thủy; THI
UYỂN của Ðặng
Hiền; TRINH
NỮ; VĂN
HỌC NGHỆ THUẬT của Lan
Phạm; VĂN
NGHỆ NGÀN PHƯƠNG của Tường
Vi; VIỆT
BÁO; VIỆT
MESSENGER; VIETNAM
JOURNAL của Ðoàn
Ðức Tâm; VIỆT
NAM THƯ QUÁN; VIETNAMESE
YOUTH; VIET-USA của Tri
Nguyen và Nguyễn
Quang Dinh; VN
LITERATURE;
và một số Web site của các nhà thơ: Bright
Quang; Hà
Huyền Chi (trên
Mạng của TRINH
NỮ và
Mạng của Hà
Phương Hoài); Song
Nhị (trên
Mạng Cơ-Sở Thi+Văn “CỘI
NGUỒN”); Thanh-Thanh (trên
Mạng THINHANVIETNAM và POETFROMVIETNAM), Trần
Trung Ðạo,
v.v...
Trên một số diễn-đàn ảo, mới đây thỉnh-thoảng có thêm thơ
tiếng Anh sáng-tác của Trúc
Lang.
Trên Mạng có một danh-mục
các tác-giả và tác-phẩm do Luân
Hoán sưu-tầm;
một “THƯ
VIỆN VIỆT NAM”
của Tâm
Vô Lệ,
tập-trung khá nhiều tác-phẩm, trong đó có thơ, của hầu hết mọi tác-giả gần xa,
từ trước đến nay trên toàn-cầu; v.v...
III
Sách nói chung, thơ nói riêng, mà được kí-nạp
tại Thư-Viện của Quốc-Hội
Hoa-Kỳ, thư-viện
của các trường đại-học Mĩ cũng
như các
nước khác,
là một hình-thức và phương-tiện phổ-biến văn-hóa, nếu không muốn nói là
tuyên-truyền, rất
hữu-hiệu.
Hiện nay, số sách [trong đó có thơ] của Việt-Nam nội-địa thì
đã hiện-diện tại các nơi ấy rất
nhiều,
trong lúc sách của Cộng-Ðồng
Người Việt Tị-Nạn Cộng-Sản ở Hải-Ngoại thì ít
hơn.
Riêng Thư-Viện
của Quốc-Hội Hoa-Kì được
xem như là thư-viện
chung cho cả hoàn-cầu.
Do đó, có một số nhà thơ, và nhà xuất-bản, muốn phổ-biến rộng-rãi tác-phẩm của
mình, đã không chỉ trông-cậy vào các buổi trình-mại sách, các bài giới-thiệu
trên báo & đài, các sạp bày bán, mà còn gửi tặng cho càng nhiều thư-viện càng
tốt – hiển-nhiên Thư-Viện
Quốc-Hội Hoa-Kì là
nơi lí-tưởng nhất.
Các thi-sĩ, và nhà xuất-bản mà chỉ lâu lâu mới xuất-bản một tập thơ, thì việc có
hay không có kí-nạp sách của mình vào Thư-Viện
Quốc-Hội Hoa-Kì,
không thành vấn-đề; nhưng có một số nhà xuất-bản in
sách thường-xuyên mà
lại không chú-í đến vấn-đề này thì là một nhược-điểm. Nhà xuất-bản “XÂY-DỰNG”
của Thanh-Thanh,
Cơ-Sở Thi Văn “CỘI
NGUỒN”
của Song
Nhị,
nhà xuất-bản “SAO”
của Vi
Khuê,
thì có lưu-tâm đến nơi lưu-trữ bảo-đảm và trường-cửu ấy cho tác-phẩm của mình;
còn “HỘI
THƠ TÀI-TỬ VIỆT-NAM”
của Như
Hoa,
nhà xuất-bản “PHƯƠNG
ÐÔNG”
của Dương
Huệ Anh,
Tủ Sách “PHỤ
NỮ THỜI NAY”
của Diễm
Châu,
v.v… thì không kí-nạp sách của mình vào kho tàng văn-học và văn-hóa ấy của
toàn-cầu, thật là đáng tiếc.
Ðể giải-quyết vấn-đề này, chúng tôi đề-nghị các tác-giả, các Hội Văn-Học
Nghệ-Thuật, các nhà xuất-bản, dù là chuyên-nghiệp hay tùy-hứng, của Người Việt
Hải-Ngoại, lưu-í kí-nạp ấn-phẩm của mình vào Thư-Viện nói trên (vì có khá
nhiều tác-phẩm giá-trị hiện-diện trên thị-trường mà không có mặt trong thư-viện
ấy).
Riêng về việc ghi danh vào Thư-Mục
Quốc-Tế và
kí-nạp vào Thư-Viện,
xin đề-nghị lập thủ-tục xin số “ISBN”
(International Standard Book Number) và cả số “LCCN”
(Library of Congress Control Number), để người nghiên-cứu dễ tìm thấy
sách của mình trong thư-viện mênh-mông.
IV
Ðã nói về thơ thì không thể không nói về thể
thơ, nhất
là vần
thơ.
Thơ Anh cũng
như thơ Việt đều
có cả thơ-có-vần lẫn thơ-không-vần (tức thơ
tự-do, thơ
buông, thơ
văn xuôi,
v.v...).
Nhìn qua các bài tiếng Anh đã
có, dù là sáng-tác trực-tiếp
hay phiên-dịch,
chúng tôi thấy rõ phần
nhiều đều không có vần. Có
thể tác-giả và dịch-giả cho đó là thơ tự-do; nhưng, theo chúng tôi nghĩ, tuy có
hình-thức là câu văn xuôi như nhau, nhưng các
câu thơ phải có cái gì khác hơn một đoạn văn xuôi – vì
nếu chỉ là văn xuôi thì hóa ra đoạn văn nào, trong một bài dài, trong một đoạn
dài, mà chỉ cần được ngắt câu xuống hàng, thì cũng đều là thơ-không-vần?
Ðó là chưa kể, dù là văn xuôi, trong nhiều trường-hợp, chính các tác-giả là
người Mĩ (Anh, Úc)
chính-thống mà cũng còn cần phải được các nhà
viết thuê (ghost-writer)
hiệu-chỉnh, huống gì chúng ta đa-số không phải là dân sinh ra đã nói/viết tiếng Anh,
mà nay lại làm
thơ tiếng Anh. (Xin
xem về nạn dùng
sai chữ, dịch
phản nghĩa, viết
trật văn-phạm tiếng Anh ở
phần dưới).
Tuy nhiên, nói thế không phải là để chúng ta ngại-ngần trong việc làm
thơ tiếng Anh hay dịch
thơ tiếng mình sang thơ tiếng Anh.
Xin đề-nghị các bạn hãy mạnh-dạn sáng-tác trực-tiếp,
hoặc đẩy mạnh việc dịch/chuyển-ngữ các
tác-phẩm của mình qua tiếng Anh,
bắt đầu bằng từng bài một. Có ai mà không có dịp gặp-gỡ chuyện-trò với người
nước ngoài; và nếu mình được giới-thiệu là một nhà-thơ mà lại có sẵn cả bản
tiếng Anh để
đưa cho họ đọc thì cả họ lẫn mình sẽ thích-thú đến ngần nào; huống hồ đăng lên
báo, in thành sách, gửi vào thư-viện cho mọi người có thể đọc được, tức là góp
phần giới-thiệu văn-học, văn-hóa của nước mình, đến độc-giả các nước ngoài.
V
Về việc phiên-dịch/chuyển-ngữ thơ,
dịch-giả không phải chỉ cần giỏi
tiếng Anh,
mà còn cần phải sành
thơ, biết
thêm đặc-ngữ, điển-tích,
v.v...
Xin đơn-cử vài thí-dụ:
1) Trong cuốn “The
Silence of Yesterday” (Sự
Im Lặng của Ngày Hôm Qua) của “Cội
Nguồn”, có
bài thơ tiếng Việt “Lui
Về Tiền Sử” của Khang
Lang, trong
đó có đoạn “Ta, hề!” Một
dịch-giả được gọi là học-giả, đã dịch 2 chữ “Ta,
hề” ra
là “It's
laughable!” (Nực
cười thay!). Người rành thơ Việt hẳn
biết giai-thoại Kinh
Kha với
các câu “Phong
tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn, Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn” (Gió
hiu hắt thổi, sông Dịch lạnh, Tráng sĩ ra đi không trở về). Nhiều thi-sĩ Việt đã
dùng chữ “hề”,
thí-dụ Trần
Hoan Trinh trong
bài “Tráng
Sĩ Hành Ca”:
Vung kiếm ta ca, hề,
Sát Thát
Vỗ gươm ta hát, hề,
Nam chinh
Vẫy súng ta thề, hề,
Bắc phạt
Gãy đàn, ta mơ, hề,
thái bình...
Có người Việt-hóa (Nôm-hóa) chữ “hề” thành
chữ “chừ”,
thí-dụ Minh
Đức dịch
bài “Phóng
Cuồng Ngâm” của Tuệ
Trung Thượng Sĩ,
với các câu:
Trời
đất liếc trông chừ,
ôi mênh mang!
Chống gậy rong chơi chừ,
phương ngoài phương
Dạo chốn cao cao chừ,
mây đỉnh núi
Hoặc nơi sâu sâu chừ,
nước trùng dương...
Chữ “hề”
ở đây không có nghĩa là “làm
hề”,
“như
một tên hề”,
mà là một thán-từ (interjection) tương-đương với “Hey!
Ho!”
trong tiếng Anh,
dùng để nhấn mạnh một cảm-xúc, trong các lời ca, tiếng hát, thí-dụ Ban Nhạc The
Lumineers của Mĩ nổi
tiếng với bài:
(Ho!)
I've been trying to do it right
(Hey!)
I've been living a lonely life
(Ho!)
I've been sleeping here instead
(Hey!)
I've been sleeping in my bed...
2) Trong cuốn “Ru
Thầm Tiếng Gọi Việt Nam”
của Ngọc
An,
có bài thơ “Biển
Nhớ”
trong đó có câu “Bao nhiêu hạnh phúc chắt chiu, Đào Nguyên một thuở Nguyễn
Lưu lạc
đường”, mà người dịch, được giới-thiệu là một giáo-sư tiến-sĩ, đã dịch ra là “So
much bliss had been spared, Of a happy land, now Nguyen
Luu lost
his way!” lại còn chú-thích là: “Nguyen
Luu,
an imaginary person in a historical myth who had visited the paradise in
Heaven” (Nguyễn
Lưu là
một nhân-vật tưởng-tượng trong thần-thoại lịch-sử cho rằng ông đã viếng thăm
thiên-đường trên Trời”). Nguyễn
Lưu thực
ra là Lưu+Nguyễn,
là hai nhân-vật Lưu
Thần và Nguyễn
Triệu,
đời Hán,
đã từng lạc vào Thiên-Thai, chứ không phải là một ông Nguyễn
Lưu.
3) Trong tác-phẩm “cuối đời” của Hà
Huyền Chi, “The
Best of Ha Huyen Chi”, người
dịch, cũng là nhà-thơ/nhà-văn, đã dịch bừa-bãi rất nhiều câu thơ trong nhiều bài
thơ. Vài thí-dụ: Bài số 591, có câu “Dăm thùng sách mới nằm say ngủ”,
mà lời dịch là “Some new book boxes do
not open” (Mấy
thùng sách mới không mở ra). “Open” là
một ngoại/tha-động-từ (mở [cái gì] ra), mà “thùng sách” là tĩnh-vật, không thể
làm chủ-từ cho “open”,
làm sao tự
mở ra được. Bài
số 592, có câu “Nói gì câu đá mòn sông cạn”, mà lời dịch là “We no
need to
talk about the fervid loyalty”. Nếu “need” là danh-từ thì nó phải là “We
don't have the
need to”;
nếu nó là động-từ thì nó phải là “We don't need
to”; không
thể nói/viết “We
no need”. Bài
594, có câu “Yêu nhau là chuyện hoang đường, Không yêu đời lãng, lại thương
tiếc đời”, mà lời dịch là “Falling into
our affections are a
fabulous story, But if we do not love We will be
regret all
our lives”. Động-danh-từ “falling” là số
ít, làm chủ-từ cho “to be”, thì “to be” phải ở số ít (“is”)
chứ không thể ở số nhiều (“are”); “to
be” là
động-từ bất-quy-tắc, nếu đứng trước một động-từ thứ hai, thì động-từ thứ hai
phải ở thể tiến-hành (“be
regretting”)
hoặc quá-khứ phân-từ (It will be
regretted),...
VI
Riêng về việc sáng-tác trực-tiếp,
hoặc dịch/chuyển-ngữ thơ
tiếng Việt sang
thơ tiếng Anh,
mà muốn
thành thơ-có-vần,
chúng tôi xin các bạn để í một điểm, đó là vần
thơ (rhyme)
trong tiếng Anh.
Lâu nay, có nhiều bài thơ tiếng Anh mà
tác-giả và dịch-giả người Việt muốn
viết ra như-có-vần nhưng
đều thực-sự
không-có-vần.
Thử dịch mấy chữ “sướng-thỏa” và “hể-hả” (chúng ăn
vần, hợp vần với nhau):
Tiếng Việt là
tiếng đơn-âm (monosyllabic), nên ta có thể dễ-dàng chọn tiếng hợp vần ở
cuối câu thơ.
Thí-dụ: câu trên tận
cùng bằng chữ “sướng-thỏa”
câu dưới tận cùng bằng chữ “hể-hả”
Âm cuối của câu trên là “thỏa”, thì nó ăn vần [hợp vần]
với “hả” của câu dưới.
Vậy, xét trong tiếng Việt,
thì “sướng-thỏa”
và “hể-hả” ăn
vần với nhau,
vì ta dùng các âm
cuối là
“thỏa”
và “hả”.
Tiếng Pháp là
tiếng đa-âm (polysyllabic), nhưng âm (syllable) nào cũng
được phát-âm (nhấn
giọng) giống
nhau,
nên nó cũng giống tiếng Việt ở điểm: có thể dùng âm cuối chữ tiếng
Pháp để chọn vần.
Thí-dụ: câu trên tận
cùng bằng chữ “heureux”
câu dưới tận cùng bằng chữ “joyeux”
Âm cuối của câu trên là “reux”, thì nó ăn vần [hợp vần] với
“yeux” của câu dưới.
Vậy, xét trong tiếng Pháp,
thì “heureux”
và “joyeux” ăn
vần với nhau,
vì Pháp dùng
các âm
cuối là
“reux”
và “yeux”
để làm vần cho thơ.
Tiếng Anh cũng là
tiếng đa-âm,
nhưng có điểm khác tiếng
Pháp là, trong tiếng Pháp thì âm
(syllable) nào cũng
được phát-âm (nhấn
giọng) giống
nhau; tuy-nhiên, trong tiếng Anh thì chỉ
có một hoặc một
số âm là
được nhấn giọng (stress, emphasize)
để định vần; còn các
âm khác thì
không được nhấn
giọng;
cho nên, dù là âm cuối của chữ cuối câu, vẫn không
được xem là một âm trong
việc chọn âm để định
vần cho
thơ.
Thí-dụ: câu trên tận
cùng bằng chữ “happy”
câu dưới tận cùng bằng chữ “merry”
Âm cuối của câu trên là “py”, âm cuối của câu dưới là “ry”: mới thấy thì tưởng là
chúng ăn vần với nhau.
Thế nhưng, ngược
lại;
vì trong tiếng Anh,
các âm
cuối “py”
(trong “happy”) và “ry”
(trong “merry”) là âm
không được nhấn giọng,
nên không
được dùng làm vần cho thơ;
trong lúc đó thì “hap”
(trong “happy”) và “mer”
(trong “merry”) mới là âm
được nhấn giọng; nhưng
chúng lại không
ăn vần với nhau,
vì một bên là “hap”
và một bên là “mer”.
Vậy, xét trong tiếng Anh, thì “happy”
và “merry”
tuy đều tận cùng bằng âm “y”
(py và ry),
nhưng vì “hap”
và “mer” không
ăn vần với nhau,
nên ta không thể dùng “happy”
và “merry”
làm 2 chữ cuối-câu cho
2 câu thơ-có-vần. “Happy” và “Merry” không ăn vần, không hợp vần với
nhau.
Người nào chỉ mới nhìn thấy các âm
cuối của chữ
cuối câu có
vẻ ăn
vần [hợp
vần] với
nhau, thí-dụ:
giữa batman với
saucepan,
fundament với
present,
education với
suggestion,
amazon với
echelon,
immune với
opportune,
v.v…
mà đã cho là chúng ăn
vần [hợp vần] với
nhau, thì tức là đã làm thơ hoặc dịch thơ tiếng Anh lạc
vần rồi
vậy.
*
Tóm lại, chúng ta cần sáng-tác trực-tiếp
hoặc phiên-dịch hay chuyển-ngữ thơ
tiếng Việt sang
thơ tiếng Anh,
để tiếng nói đầy tình-tự dân-tộc của Người
Việt nói
chung, của Người Việt Hải-Ngoại nói riêng, không bị quên lãng, hoặc bị lấn-át
bởi tiếng nói phi-dân-tộc, trước “bốn biển, năm châu”, trong bối-cảnh toàn-cầu-hóa mọi
sinh-hoạt hiện nay.
Hội-Viên
Văn-Bút Quốc-Tế, Trung-Tâm PEN America