TO
TAKE vs.
TO BRING
Sau khi tập thơ Vietnamese
Choice Poems
của tôi được nhà xuất-bản Xlibrix
của Mỹ ấn+hành, tôi được một số
độc-giả gọi đến, nói chung là khen, nhưng
có vài bạn thắc-mắc tại sao một số bài thơ
nguyên-tác tiếng Việt đă được người
khác dịch rồi, xem cũng khá chỉnh, thế mà khi tôi
dịch lại th́ khác hẳn đi.
Một trong
các thí-dụ liên-quan là bài thơ Khi
Tôi Chết Hăy Đem Tôi Ra Biển
của Du
Tử Lê.
Có người đă dịch, hết sức “giản-dị”,
“dễ hiểu”, là:
When I die, bring me to
the sea
Thế mà Thanh-Thanh
lại dịch “rườm-rà”:
When I have passed away,
take me to the sea
(sđd, trang 61) hoặc:
When I am dead, ...
(sđd, trang 62)
*
Thế nên
tôi
xin trả lời.
Trong câu
tiếng Anh trích trên, When
I die, bring me to the sea,
tôi thấy có hai vấn-đề:
1/ Động-từ
“die”
2/ Động-từ
“bring”
I
Câu When
I die, bring me to the sea là
một câu phức-hợp (complex sentence), gồm có
mệnh-đề chính (principal clause) bring
me to the sea
và mệnh-đề phụ (subordinate clause) When
I die.
Cả
hai mệnh-đề ấy đều ở th́
hiện-tại.
Về mặt văn-phạm/ngữ-pháp
th́ câu ấy được đặt đúng cách.
Nhưng,
về mặt ngữ-nghĩa
(nghĩa
của
chữ),
chữ “die”
trong từ-đoạn “When
I die”
(Khi tôi chết) cần được xét lại:
a) Người
rành tiếng Anh, nhất là người-nói-tiếng-Anh,
thấy ngay chữ “die”
là động-từ “to die” (chết), thuộc loại
động-từ thường (ordinary verb), động-từ
quy-tắc (regular verb), nội-động-từ/tự-động-từ
(intransitive verb), được chia ở th́
hiện-tại
(present tense), h́nh-thức đơn (simple), ngôi thứ
nhất (first person), số ít (singular number), thể chủ-động
không liên-tiến (active voice, non-continuous).
b) Theo văn-phạm/ngữ-pháp
tiếng Anh th́ động-từ được chia ở
“th́
hiện-tại”
là để diễn-tả các hành-động hoặc
trạng-thái đang
xảy ra
trong khi chúng đang
được diễn-tả
(The present tense describes actions or conditions that are taking place while
they are being described - English
Grammar
by David Daniels & Barbara Daniels, v.v...). Hăy lấy ví-dụ:
“When I
speak,
listen to me!” (Khi tôi nói, hăy lắng nghe tôi!), hoặc “When
I
sleep,
do not talk!” (Khi tôi ngủ, đừng nói chuyện!). Như
thế, th́ “I
speak”
có nghĩa là tôi
đang nói
(v́ chưa nói xong) th́ hăy lắng nghe tôi (chứ đă nói
xong rồi th́ c̣n lắng nghe ǵ nơi tôi nữa?); và “I
sleep”
có nghĩa là tôi
đang ngủ
(v́ chưa thức dậy) th́ đừng nói chuyện (chứ
đă thức dậy rồi th́ ai lại cấm người
khác nói chuyện?).
c) Bởi
thế, “I
die”
có nghĩa là “tôi chết”, nhưng cũng có nghĩa là
“tôi
đang chết”
(v́ đang ở trong tiến-tŕnh chết, chứ chưa
ra khỏi tiến-tŕnh chết, tức là chưa
chết hẳn).
Mà lúc ấy, khi thi-sĩ Du
Tử Lê
đang
chết,
tức là chưa
chết hẳn,
th́ ai lại dám (vi-phạm luật-pháp, làm trái
tục-lệ và lương-tâm, mà) đem ông ta ra biển?
V́ việc
“bring
me to the sea”
(hăy đem tôi ra biển) sẽ xảy ra sau
khi “I”
đă “die” rồi (tôi đă chết thật rồi), mà
tác-giả câu trên lại chia động-từ “bring”
ở th́
hiện-tại
(bring
hiểu ngầm là You
bring)
trong cách
mệnh-lệnh
(imperative mood), cho nên động-từ “die” (chết)
phải được chia ở th́
hiện-tại hoàn-thành (present
perfect tense), là “When
I have died”,
v́ chết là việc đă xảy ra trước
khi
“bring
me to the sea”.
Động-từ
được chia ở th́
hiện-tại hoàn-thành
là để diễn-tả các hành-động hoặc
trạng-thái đă
xảy ra xong
rồi, nhưng sau đó được nhắc lại
trong khi đang
diễn-tả
một việc khác (ở th́
hiện-tại)
mà có liên-quan trực-tiếp đến việc đă
xảy ra trước đó.
Do đó, Thanh-Thanh
đă dùng một số động-từ (đều có
nghĩa là “qua đời” tức “chết”), trong
đó có “pass away” (là một động-từ
được các bác-sĩ, y-tá thường dùng) và chia
chúng ra ở “th́
hiện-tại hoàn-thành”
(present perfect tense: have
passed away)
để chỉ rơ một sự-việc hoặc t́nh-trạng
đă xảy ra rồi, nhưng hiện-tại
đang
c̣n
được nói đến trong một trường-hợp
mới: việc “chết” ấy tuy đă
hoàn-thành
(đă chết thật rồi) nhưng việc liên-quan
đến, và đến sau cái chết ấy (là đem
ra biển)
th́ v́ động-từ “bring”
(xảy ra sau đó) được chia ở th́
hiện-tại,
cho nên động-từ “die”
(xảy ra trước đó) phải được chia
ở th́
hiện-tại hoàn-thành
(When
I have died hoặc
When I have deceased,
v.v...).
Đó là cái
lắt-léo ở nghĩa
của chữ
“die” (cũng như expire, decease, depart, fade away, go forever,
v.v...) mà thôi, chứ không phải động-từ nào
trong trường-hợp tương-tự (mệnh-đề
phụ trong câu phức-hợp) cũng đều phải
được chia ở th́
hiện-tại hoàn-thành.
Khi nghĩa của chữ (động-từ) mà không rắc-rối như trên, th́ (trong lúc mệnh-đề chính của câu phức-hợp được chia ở th́ hiện-tại) động-từ liên-hệ trong mệnh-đề phụ của câu ấy vẫn được chia ở th́ hiện-tại như thường-lệ, như các thí-dụ đă nêu trên kia:
“When I speak, listen to me!” hoặc
“When I sleep, do not talk!” v.v...
II
Trong
mệnh-đề “bring
me to the sea”
(hăy đem tôi ra biển), động-từ “bring”
phải được xét lại.
a- “To
bring”
nghĩa là đem (người
nào, vật ǵ) đến
nơi
mà ta
đang ở đó,
hoặc ta
đang nói đến.
b- Trên lư-thuyết, trong bài thơ của Du Tử Lê, thi-sĩ không (chưa hề) nói ǵ về biển, trước khi bảo “hăy đem tôi ra biển”. Vậy th́ biển không phải là nơi mà ta đang ở đó, hoặc ta đang nói đến. Cho nên không thể dùng động-từ bring trong câu này (bring me to the sea).
c-
Trên thực-tế,
họ Lê không ở biển, và các thân-nhân &
bằng-hữu của ông cũng không ở biển,
tức là không có người nào ở biển, th́ không
thể dùng động-từ bring
để đem
tôi ra
một nơi mà không có ai ở đó, cũng chưa
được nghe nói đến trước đó.
d-
Về mặt ngữ-nghĩa,
ta chỉ có thể dùng động-từ bring
trong
trường-hợp đă
có
đề-cập
đến người
nào hoặc địa-chỉ
nào rồi, trước
khi dùng nó.
Thí-dụ:
1. A
nói với B: “Remember to come to my
place
for the annual meeting this Sunday. But, do not bring
anything!”
(Bạn nhớ đến dự buổi họp hàng năm
tại nhà tôi vào chủ-nhật này nhá. Nhưng đừng
mang theo [quà cáp] ǵ!). V́ A
đă
đề-cập
đến my
place
(nhà của tôi) rồi,
cho nên động-từ bring
được dùng để dặn B đừng bring
[anything]
to my place (nhà
của A).
2. X nói với Y: “Z
does not like children; so, do not bring your kids to her party this weekend!”
(Bà Z không thích trẻ con; vậy bạn đừng đem
theo các cháu nhỏ đến dự buổi tiệc
tại nhà bà ấy vào cuối tuần này nhé!). V́ Z
đă được X đề-cập đến với
Y rồi, tức là địa-chỉ
của Z
đă được nói đến trước rồi,
cho nên động-từ bring
được dùng để dặn Y đừng bring
[đem] con nít đến đó (nhà của Z).
Ngược lại, đem người nào hoặc
vật ǵ từ
nơi
ta đang
ở đó
hoặc ta đang
nói đến,
đến một nơi nào khác, mà trong mạch văn (văn-cảnh:
context) liên-hệ chưa được nói đến trước
đó, th́ dùng động-từ “to
take”.
“To
take”,
theo từ-điển (thí-dụ Random
House Webster's Unabridged Dictionary,
v.v...), là “carry with one” (đem theo với ḿnh): từ
một nơi đă biết rơ,
tức là nơi ta
đang ở đó
(nơi mà nhà thơ họ Lê đang nằm chết), mà take
me
to the sea
là nơi bây giờ tác-giả mới đề-cập
đến, chứ trước đó chưa hề
được nói đến.
V́ vậy,
trong bài thơ tiếng Anh dịch nguyên-tác của Du
Tử Lê
trong Vietnamese
Choice Poems,
Thanh-Thanh
đă dịch:
“When
I have passed away, take me to the sea!”