SỬ
VIỆT HIỆN-ĐẠI
MỘT
CÁCH VIẾT MỚI
Về việc viết sử, xưa nay có nhiều phương-pháp.
Bài này chỉ nói về việc viết sử Việt Nam hiện-đại, đặc-biệt
là việc phân-chia thời-gian cho mỗi thời-đại,
thời-ḱ, giai-đoạn liên-quan.
Trước nhất là nói về thời-đại Việt-Nam Cộng-Ḥa.
I.
“NHỮNG
TIẾNG NÓI
TỪ
NỀN ĐỆ-NHỊ VIỆT-NAM CỘNG-H̉A”
Mở đầu vấn-đề là tác-phẩm
tiếng Anh “Voices from the Second
Republic of South VietNam”,
do Cornell
Southeast Asia xuất-bản, mà chủ-biên (Tổng Biên
Tập) là Keith.
W. Taylor,
tham-luận là một số nhân-sĩ Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Đây là một biến-cố
quan-trọng,
v́ nó đánh dấu cụ-thể, công-khai sự xoay
chiều của công-luận Hoa-Ḱ
(trong
chính-quyền và trên truyền-thông) từ phản-chiến
(chống Chiến-Tranh
Việt-Nam và Việt-Nam Cộng-Ḥa) qua phục-chính (phục-hồi
Chính-Nghĩa),
mà người mở đường là Giáo-Sư Keith W. Taylor, Giám-Đốc Chương-Tŕnh Đông-Nam
Á-Châu
của Viện Đại-Học Cornell, vốn là căn-cứ-địa
của một số trí-thức thiên-tả, kể
cả bản-thân Ông Taylor.
Theo
cố Giáo-Sư Nguyễn
Ngọc Bích
(trên tờ “Việt
Báo”
của Trần
Dạ Từ
& Nhă
Ca)
th́ quá-tŕnh h́nh-thành tác-phẩm này có thể được
tóm-tắt như sau:
Ông Keith
W. Taylor
nguyên là một chiến-binh Hoa-Ḱ tham-chiến tại Việt-Nam. Sau khi hồi-hương, ông đă đặc-biệt
t́m hiểu thêm về nước ta.
Kết-quả, ông đă viết nhiều sách và
bài về lịch-sử
và văn-học
Việt-Nam,
trong đó có các tác-phẩm giá-trị như The Birth of Vietnam (Việt Nam Khai Quốc),
A
History of the Vietnamese (Một Cuốn Sử về Người
Việt).
Trong nhiều năm giảng-dạy tại Viện Đại-Học Cornell ở Bang New York
(Hoa-Ḱ),
Ông Keith
W. Taylor
đă bị ảnh-hưởng bởi lối tŕnh-bày
lịch-sử truyền-thống (rằng Việt-Nam
là một dân-tộc thống-nhất với một
lịch-sử xuôi ḍng từ xưa cho đến ngày
“thống-nhất đất nước” 30-4-1975).
Nhưng rồi ông tỉnh
ra,
rằng lịch-sử Việt-Nam
đă có nhiều giai-đoạn phân-chia: có thời-ḱ có
3 chính-quyền (Nhà Mạc;
Nhà Lê
với Chúa Trịnh;
Chúa Nguyễn
ở Miền Nam);
có giai-đoạn Trịnh–Nguyễn
phân-tranh; rồi thời-ḱ tranh-hùng giữa 2 Nhà Nguyễn
(Nguyễn Tây-Sơn
với Nguyễn Gia-Miêu);
chưa kể anh+em Tây-Sơn cũng chia nước ra làm 3; và nhất là
Việt-Nam
sau Geneva
1954.
V́ thế, Ông Keith
W. Taylor
đă công-nhận rằng lối tŕnh-bày cũ không sát thực-tế, quá một-chiều.
Nên ông nh́n lại lịch-sử Việt-Nam cận-hiện-đại và thấy Miền Nam trong ngót 21 năm (1954-1975)
đă thực-sự là một quốc-gia được quốc-tế công-nhận rộng-răi (hơn Miền
Bắc
cộng-sản rất xa trong nhiều lănh-vực và trong
nhiều nghĩa.) Từ
đó, ông có í-tưởng phải nghiên-cứu một cách
đứng-đắn về Miền
Nam,
về 2 nền Việt-Nam
Cộng-Ḥa.
Đó là lí-do tại sao Giáo-Sư Keith W. Taylor (tức Viện Đại-Học Cornell), là một trong các
Viện Đại-Học lớn của Hoa-Ḱ, đă tiên-phong mời một số nhân-vật
đă có vai tṛ đáng kể trong những lănh-vực chính-trị,
ngoại-giao, an-ninh, quốc-pḥng, kinh-tế, tài-chánh, thông-tin
tuyên-truyền... của thời Đệ-Nhị
Cộng-Ḥa
họp lại để tŕnh-bày cho khoảng 100
học-giả đến từ khắp nước Mĩ
và cả một số nước khác (Pháp, Anh, Canada...) về những kinh-nghiệm xây-dựng
dân-chủ qua Hiến-Pháp
1967,
tôn-trọng Tam-Quyền
Phân-Lập
và những quyền căn-bản của người dân,
qua một nền kinh-tế tự-do nhưng có điều-tiết,
khuyến-khích phát-triển nông-nghiệp và công-nghiệp,
xuất-khẩu, và đang trên đà cất cánh (takeoff).
Các diễn-giả do Giáo-Sư Keith
W. Taylor
nhân-danh Chương-Tŕnh
Đông-Nam Á-Châu của Viện Đại-Học Cornell đứng ra
tổ-chức và mời tham-dự cuộc Hội-Thảo Những Tiếng Nói từ Miền Nam (“Voices from the South”)
vào
tháng 6 năm 2012
(và có bài in trong sách này) gồm có:
Bùi Diễm,
cựu Đại-Sứ tại Hoa-Kỳ,
Đặc-Sứ tại Ḥa-Hội Paris, Đại-Sứ Lưu-Động của
VNCH.
Phan
Công Tâm,
cựu Giám-Đốc Kế-Hoạch và Phụ-Tá Công-Tác
Đặc-Biệt cho Đặc-Ủy-Trưởng
tại Phủ Đặc-Ùy Trung-Ương T́nh-Báo VNCH.
Nguyễn
Ngọc Bích,
cụu Tổng-Giám-Đốc Thông-Tấn-Xă VNCH.
Trần
Quang Minh,
cựu Thứ-Trưởng Bộ Nông-Nghiệp &
Tổng-Giám-Đốc chương-tŕnh Lương-Thực
Quốc-Gia VNCH.
Nguyễn
Đức Cường,
cựu Bộ-Trưởng Bộ Thương-Nghiệp
& Công-Nghiệp VNCH.
Phan
Quang Tuệ,
cựu Phó Đổng-Lư Văn-Pḥng của Chánh-Thẩm
Tối-Cao Pháp-Viện VNCH.
Trần
Văn Sơn,
cựu Dân-Biểu VNCH.
Mă Xái,
cựu Dân-Biểu VNCH.
Hồ
Văn Kỳ Thoại,
cựu Phó Đề-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng
I Duyên-Hải VNCH.
Lữ
Lan,
cựu Trung-Tướng Tổng-Thanh-Tra, Bộ
Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực VNCH.
(Chưa kể phần dẫn-nhập của
Chủ-Biên Keith W. Taylor, và phần tham-luận của Ông Hoàng Đức Nhă,
cựu Tổng-Trưởng Dân-Vận & Chiêu-Hồi VNCH.)
II.
MỘT
Cách ViẾt MỚi
vỀ SỬ VIỆT HIỆN-DẠI
Tôi đặc-biệt chú í đến cách
viết (phân-chia thời-ḱ
lịch-sử)
trong sách này (có người gọi tắt là “Những Tiếng Nói từ Miền Nam” – Voices from the South.)
Cứ theo tinh-thần cuộc hội-thảo này, qua bài
luận-thuyết của người chủ-xướng,
Ô. Taylor,
th́:
“Việt-Nam
Cộng-Ḥa (Nam Việt-Nam) thông-thường được xem là
một thực-thể thống-nhất xuyên suốt qua hai
thập-niên (từ 1955 đến 1975) trong đó Hoa-Kỳ
là đồng-minh chính-yếu của ḿnh.
Tuy nhiên, chính-trị quốc-nội trong
thời-kỳ ấy đă diễn-biến theo một
quỹ-đạo động, từ một giai-đoạn
độc-đoán
đến một giai-đoạn
hỗn-loạn,
rồi đến một giai-đoạn
thử-nghiệm dân-chủ đại-nghị tương-đối
ổn-định.
Ấn-tượng sâu-sắc về Nam
Việt-Nam
biểu-lộ trong đa-số các tác-phẩm, cả
kinh-viện lẫn đại-chúng, tập-trung vào hai
giai-đoạn đầu tiên
[độc-đoán, hỗn-loạn] để miêu-tả
một bức tranh biếm-họa về tệ-nạn
độc-tài tham-nhũng bất-ổn, mà ít nói đến
những ǵ đă đạt được trong giai-đoạn
tám năm sau cùng [thử-nghiệm dân-chủ...]”
Tám năm sau cùng, là [1975-8=1967] từ 1967 đến 1975. Đó là
giai-đoạn Việt-Nam
Cộng-Ḥa có Hiến-Pháp do Quốc-Hội Lập-Hiến với
Chủ-Tịch Phan
Khắc Sửu
chung-quyết (18-3-1967), có bầu-cử Tổng-Thống & Phó
Tổng-Thống (3-9-1967),
kết-quả của đ̣i-hỏi chính-đáng
của dân-chúng qua Biến Động Miền Trung
năm 1966.
Trước đó [và cả hiện nay], thông-thường
người ta chia Việt-Nam Cộng-Ḥa
ra làm 2 thời-ḱ (nền Cộng-Ḥa):
1. Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa: từ 1954
đến 1963
2. Đệ-Nhị
Cộng-Ḥa: từ
1963 đến 1975
Như thế tức là người ta lấy ngày Cách-Mạng 1-11-1963 làm mốc thời-gian (chấm dứt Đệ-Nhất
Việt-Nam Cộng-Ḥa),
để kể từ đó trở đi (1963-1975) là Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Nhưng nay, theo cách (phương-pháp) mới trong việc viết sử hiện-đại
của [Miền Nam] Việt-Nam
nói trên, ta có:
1/ Giai-đoạn độc-đoán:
từ 1955 đến 1963
2/ Giai-đoạn hỗn-loạn:
từ 1963 đến
1966
3/ Giai-đoạn dân-chủ:
từ 1967 đến 1975
Vậy là thời-ḱ Đệ-Nhị
Việt-Nam Cộng-Ḥa (1963-1975) được chia ra làm 2 giai-đoạn:
giai-đoạn hỗn-loạn
và giai-đoạn dân-chủ,
mà giai-đoạn sau cùng này [tám năm cuối-cùng)
mới là giai-đoạn
thử-nghiệm dân-chủ đại-nghị tương-đối
ổn-định, trong đó các nhân-vật
kể trên [và nhiều người khác nữa chứ]
“đă ra sức xây-dựng một cơ-cấu
hiến-định cho chính-thể đại-nghị trong một cuộc chiến để
sống-c̣n chống lại một nhà-nước chuyên-chế.
Những người đă cam-kết thực-hiện
một tương-lai cho Việt-Nam không-cộng-sản đă đặt tất
cả hy-vọng của họ vào nền Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Ḥa, đấu-tranh cho nó, và hành-động
cho sự thành-công của nó...”
III.
BA
GIAI-ĐOẠN
CỦA
THỜI-K̀ ĐỆ-NHẤT CỘNG-H̉A
Tôi
thấy phân-chia thời-ḱ Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Ḥa ra 2 giai-đoạn
như thế, nh́n chung, cũng rất hợp-lí, mặc dù
kết-quả t́nh-h́nh (do các iếu-tố nội-tại
cũng như ngoại-lai) đă vượt ra ngoài ước-mong và
nỗ-lực
của những người có viễn-kiến và tâm-huyết liên-quan (Xem
thêm).
Cũng nhân vấn-đề phân-chia giai-đoạn
lịch-sử trong thời-ḱ Đệ-Nhị Việt-Nam
Cộng-Ḥa
này, tôi thấy cũng nên (và cần) làm việc tương-tự
đối với thời-ḱ Đệ-Nhất
Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Lí-do là v́ hầu như mỗi lần nói đến
Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Ḥa (gọi tắt là chế-độ
Diệm),
hai phía hoài-Ngô
và bài-Ngô
đều vơ đũa cả nắm, cực-đoan
đến độ thiếu phần khách-quan.
Phía hoài-Ngô
th́ cứ cho rằng, v́ giới Phật-Tử Tranh-Đấu,
tức Phật-Giáo Ấn-Quang,
tức Giáo-Hội
Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất, cụ-thể là Thượng-Tọa Thích Trí Quang,
đă lật đổ “chế-độ
Diệm”,
nên Đệ-Nhị
Việt-Nam Cộng-Ḥa chỉ là một quá-tŕnh dẫn đến
mất nước vào Ngày 30-4-1975.
(Điều này đă được chứng-nhân
lịch-sử Lê
Xuân Nhuận, ít nhất là trong cuốn sách hồi-kí
“Biến-Loạn
Miền Trung”
do Nhà Xây-Dựng
xuất-bản vào đầu năm 2012, nêu thêm một số iếu-tố Sự Thật, rằng ai mới là chính-phạm
bức-tử Việt-Nam
Cộng-Ḥa. Ngoài ra, “Chớ
đem thành/bại luận anh-hùng”, trong số những nhân-vật ít/nhiều
liên-quan đến vận nước suy-vong, vẫn có
nhiều người nổi bật với các đóng-góp tích-cực
của họ, ít nhất là các diễn-giả trong
cuộc Hội-Luận “Những Tiếng Nói từ
Miền Nam”
ở Viện Đại-Học Cornell
vào
tháng 6 năm 2012 nói trên, với các thành-tựu nhất-định của họ, đều
đă chính-thức nói lên tiếng nói của ḿnh.)
C̣n phía bài-Ngô
th́ cũng v́ thấy Đệ-Nhất
Việt-Nam Cộng-Ḥa có quá nhiều khuyết-điểm, nhất là
đều nằm dưới quyền [toàn-quyền chính-trị
và quân-sự] của một lănh-tụ, Ông Ngô
Đ́nh Diệm [và gia-đ́nh], nên đă quy chung giai-đoạn
cầm quyền của ông từ 7-7-1954
đến 26-10-1955
vào với thời-kỳ Đệ-Nhất
Việt-Nam Cộng-Ḥa của Nhà Ngô 1955-1963 mà Giáo-Sư Keith W. Taylor
gọi là chung là giai-đoạn độc-đoán.
*
Theo tôi, thời-ḱ “chế-độ
Diệm”
nên/cần được chia ra làm 3 giai-đoạn:
1) Giai-đoạn Chuyển-Tiếp:
từ 7-1954 đến 10-1955
2) Giai-đoạn Độc-Đoán
Nhẹ:
từ 1955 đến 1960
3) Giai-đoạn Độc-Đoán
Nặng:
từ
1960 đến 11-1-1963
1)
Giai-Đoạn
Chuyển-Tiếp (1954-1955)
Ở
giai-đoạn bản-lề này, Ông Ngô
Đ́nh Diệm c̣n là Thủ-Tướng của Quốc-Gia Việt-Nam dưới quyền Quốc-Trưởng
Bảo-Đại.
Thủ-Tướng Ngô
Đ́nh Diệm đă thành-công
trong nhiều việc, tỉ như:
– Tiếp+Trợ gần 800,000 đồng-bào Bắc-Việt di-cư vào Nam (với phương-tiện của Mĩ và Pháp do Mĩ iểm-trợ);
– Chấm dứt sự chống-đối của
Trung-Tướng
Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Nguyễn Văn Hinh (nhờ
Quốc-Trưởng Bảo
Đại
cất chức);
– Được các tướng+tá chỉ-huy các giáo-phái
vũ-trang Cao-Đài và Ḥa-Hảo lần-lượt đem quân về
hợp-tác; đặc-biệt Tướng Tŕnh
Minh Thế
(Cao-Đài)
tận-t́nh cho đến chết;
– B́nh-định chiến-khu Ba
Ḷng
của Đại-Việt
ở Quảng-Trị;
– Dẹp yên lực-lượng B́nh-Xuyên
từ thủ-đô Sài-G̣n
xuống tận Rừng
Sát
(chỉ-huy chiến-dịch “Hoàng Diệu” này là Đại-Tá Dương Văn Minh);
– Băi bỏ “Hoàng-Triều
Cương-Thổ”;
– Được Hội-Đồng Tôn-Nhơn-Phủ
(của hoàng-gia Nguyễn-Phước
Tộc) từ Huế
gửi điện vào ủng-hộ;
– Được nhận trực-tiếp
viện-trợ của Mĩ, không c̣n qua trung-gian của Pháp;
– Được Pháp
giao trả Dinh
Độc-Lập;
chuyển quyền chỉ-huy/quản-trị Quân-Đội,
Cảnh-Sát & Công-An, Tư-Pháp, Ngân-Khố,
Tiền-Tệ, Hối-Đoái, Thương-Mại,
Quan-Thuế, Công-Chánh, v.v...
(Nguồn: “Hai Mươi Năm Qua – Việc Từng Ngày – 1945-1964”
của Đoàn
Thêm)
Tuy thế, Thủ-Tướng Ngô
Đ́nh Diệm
đă gặp phải nhiều trở-lực:
Tổng-Ủy-Trưởng Tị-Nạn
Ngô
Ngọc Đối,
Bộ-Trưởng tại Phủ
Thủ-Tướng
Bùi
Kiện Tín,
Tổng-Trưởng Phụ-Tá Quốc-Pḥng Hồ Thông Minh, Quốc-Vụ-Khanh Ủy-Viên
Quốc-Pḥng
Trung-Tướng
Trần Văn Soái,
Quốc-Vụ-Khanh Ủy-Viên Quốc-Pḥng Thiếu-Tướng Nguyễn Thành Phương, Tổng-Trưởng
Xă-Hội
Nguyễn Mạnh Bảo,
Tổng-Trưởng
Thông-Tin
& Chiến-Tranh Tâm-Lư Phạm Xuân Thái, Tổng-Trưởng Kinh-Tế Lương Trọng Tường,
Tổng-Trưởng
Canh-Nông
Nguyễn Công Hầu,
Bộ-Trưởng
Nội-Vụ
Huỳnh Văn Nhiệm,
Thứ-Trưởng
Nội-Vụ
Nguyễn Văn Cát,
Đô-Trưởng
Sài-G̣n
Trần Văn Hương, v.v...
tất cả đều do Thủ-Tướng Ngô Đ́nh Diệm bổ-nhiệm, mà đều theo nhau từ-chức để
phản-đối; Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc thành-lập “Mặt Trận
Thống-Nhất”
gồm nhiều đoàn-thể, cùng các giáo-phái, các
giới-chức khác, cả trong lẫn ngoài nước,
đều đ̣i-hỏi Thủ-Tướng Ngô Đ́nh Diệm mở rộng chính-phủ, thực-thi dân-chủ,
v.v...
Cho nên, mới một năm đầu mà Thủ-Tướng
Ngô Đ́nh Diệm đă phải cải-tổ nội-các, nhiều lần.
Đó là về chính-sách, thuật trị-quốc, thuật dụng-nhân, và nhân-sự
nội-bộ; vả lại vẫn c̣n Quốc-Gia
Việt-Nam dưới thời Quốc-Trưởng Bảo-Đại, nên thời-gian này có
thể được liệt vào trong Giai-Đoạn 1,
là “Giai-Đoạn
Chuyển-Tiếp”.
2)
Giai-Đoạn
Độc-Đoán Nhẹ (1955-1960)
Giai-Đoạn
2
được nhen-nhúm từ Giai-Đoạn 1,
cụ-thể là việc hợp-pháp-hóa “Hội Cần
Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng”, thành-lập đoàn-thể
chính-trị
“Tập-Đoàn
Công-Dân”; triển-khai các Đoàn Cán-Bộ “Công-Dân-Vụ”
lưu-động, “Phong
Trào Cách Mạng Quốc Gia”; tổ-chức “Tham-Chính-Viện”
(thay-thế Tối-Cao
Pháp-Viện
cũ); v.v... từ ngày 7-7-1954
đến ngày “Trưng
Cầu Dân Ư”
23-10-1955.
Tháng 7-1954, Ông Ngô
Đ́nh Diệm
nhậm-chức Thủ-Tướng ở Sài-G̣n. Ở Miền
Trung,
ảnh-hưởng của Pháp
và Quốc-Trưởng Bảo-Đại
c̣n mạnh. Tại Bộ
Tư-Lệnh Đệ-Nhị
Quân-Khu,
đóng trong Đại-Nội
(tả-ngạn Sông
Hương),
Huế,
Đại-Tá Trương
Văn Xương
làm Tư-Lệnh; các Đại-Úy/Thiếu-Tá Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm
thay nhau làm Trưởng Pḥng 3 và Tham-Mưu-Trưởng;
Đại-Úy Đặng Văn An làm Trưởng Pḥng 5.
Tham-Mưu-Trưởng Trần
Thiện Khiêm
kí sự-vụ-lệnh (bằng chữ Pháp) cử Lê Xuân Nhuận làm Trưởng Ban Phát-Thanh [mà
Pḥng 5 gọi là Giám-Đốc Đài] “Tiếng Nói Quân Đội” tại Đệ-Nhị Quân-Khu.
Khi Trung-Tướng Nguyễn
Văn Hinh
, Tổng-Tham-Trưởng Quân-Đội Quốc-Gia (và Đại-Tá Trương
Văn Xương
Tư-Lệnh
Đệ-Nhị
Quân-Khu) chống lại Thủ-Tướng Ngô Đ́nh Diệm,
Lê
Xuân Nhuận
li-khai nhóm Trương
Văn
Xương,
dùng “Đài Tiếng
Nói Quân-Đội tại Đệ-Nhị Quân-Khu”, mà trụ-sở đặt tại Đài
Phát-Thanh Huế
(hữu-ngạn Sông
Hương),
để đơn-phương ủng-hộ Ngô Tổng-Thống. Đài
Huế hồi đó rất mạnh, phủ sóng
khắp cả Miền Bắc
lẫn Miền
Nam;
nhờ đó, các phần-tử đầu-tiên
ủng-hộ họ Ngô ở Huế và Miền Trung mới mạnh-dạn bước
ra, và ở Miền
Nam
càng vững chân hơn (xem
thêm)...
Trong cuộc trưng cầu dân ư truất-phế Bảo Đại ngày 23-10-1955, Lê Xuân Nhuận được chỉ-định
làm “Trưởng
Pḥng Phiếu”
tại khu-vực Ḍng
Chúa Cứu-Thế, hữu-ngạn Sông Hương. Đại-Úy
(về sau là Trung-Tá) Đặng Văn An, trong Bộ Tham-Mưu cũ
của Đại-Tá Trương
Văn Xương, cấp chỉ-huy cũ của tôi, th́ dè-dặt
nh́n tôi mà bỏ phiếu; c̣n mấy nhân-viên kiểm-soát
việc cử-tri bỏ phiếu, tôi chưa hề quen, th́
luôn lén liếc về tôi; khiến tôi cảm thấy
mất tự-nhiên. Kết-quả
là ở Sài-G̣n Chợ-Lớn có 450,000 cử-tri ghi tên đi bầu, mà số
phiếu bầu cho Cụ
Ngô
đếm được là 605,025
(130%).
Nguồn: Bernard Fall, “The Two Viet-Nams: A Political and Military Analysis (New
York: Frederick A. Praeger, 1962”, trang 257.
Lấy các ngày tháng lịch-sử mà tính cho dễ,
th́ ngày 26-10-1955, ngày tuyên-bố Hiến-Ước
tạm-thời, thành-lập nước Việt-Nam Cộng-Ḥa [của Ngô Đ́nh Diệm]
thay cho Quốc-Gia
Việt-Nam [của Bảo-Đại], cải-danh Quốc-Trưởng là Tổng-Thống,
là ngày khởi-đầu của giai-đoạn 2 (Độc-Đoán Nhẹ).
Tôi gọi là “Giai-Đoạn
Độc-Đoán Nhẹ”
v́, ít ra, trong Giai-Đoạn 2 này:
1/ Phần th́ Hoa-Ḱ
ủng-hộ tích-cực và viện-trợ dồi-dào,
phần th́ Cộng-Sản Việt-Nam bận lo tái-thiết Miền
Bắc
nhiều năm sau ngày ngưng bắn 20-7-1954 nên chưa quấy-rối Miền Nam, Miền
Nam Việt-Nam quả đă hưởng được một
giai-đoạn thanh-b́nh, người dân no cơm ấm áo,
có phần dư-dả, và đất nước vươn
lên, hy-vọng phú-cường...
2/ Phần th́ các tệ-nạn do chế-độ gây
nên tuy đă đầy nhưng chưa
tràn;
cho đến khi bùng nổ, đẩy Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Ḥa vào Giai-Đoạn 3, là
“Giai-Đoạn
Độc-Đoán
Nặng”,
bắt đầu từ 1960
(xem thêm).
3)
Giai-Đoạn
Độc-Đoán Nặng (1960-1963)
Bắt đầu từ đầu năm 1960,
âm-lịch là năm Canh-Tí,
mà năm Canh-Tí
là “năm tuổi” của Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm (64 tuổi), cái nồi súp-de x́ ra:
nhật-báo Tự
Do,
mặc dù ấn-hành nhờ tiền Mật-Vụ của
Cố-Vấn Ngô
Đ́nh Nhu, đăng lên b́a trước số Xuân,
một bức họa của Phạm Tăng, vẽ 6 con chuột
đang gặm nhấm một trái dưa hấu. V́
mới x́ thôi, nên ai tinh mắt mới
thấy, 6
con chuột ấy
là Diệm,
Thục,
Nhu,
bà Nhu,
Cẩn,
Luyện,
và quả dưa
hấu
ấy là nước Việt-Nam
Cộng-Ḥa dưới triều Ngô.
Đến khi nổ
bùng,
mọi người đều nghe/thấy/biết, th́ biến-cố
đầu tiên là Lê
Xuân Nhuận
ở Huế
đă công-khai
lên tiếng,
trong buổi “học-tập chính-trị và công-dân giáo-dục”
(do Cố-Vấn Ngô
Đ́nh Nhu
chỉ-đạo cho toàn-quốc) vào dịp Lễ Hai Bà Trưng, 3-3-1960, tại cơ-quan
Cảnh-Sát Huế
(lại
Huế),
tố-cáo
các tội ác
dưới thời Đệ-Nhất
Việt-Nam Cộng-Ḥa, hiển-nhiên do Đảng Cần-Lao
Nhân-Vị gây nên.
Biến-cố này xảy ra (3-3-1960) trước cả
chuỗi những biến-cố khác
(vụ 18 nhân-sĩ Caravelle
26-4-1960, vụ đảo-chánh hụt 11-11-1960, “Mặt
Trận Giải-Phóng Dân-Tộc Miền Nam Việt-Nam”
ra đời
20-12-1960, v.v...) (Xem
thêm)
Hiển-nhiên thời-gian 1960-1963 là Giai-Đoạn
Độc-Đoán Nặng,
từ lời phản-kháng công-khai của Lê
Xuân Nhuận đến
cái chết của anh+em Ngô
Đ́nh Diệm & Ngô
Đ́nh Nhu.
III.
HAI
GIAI-ĐOẠN
CỦA
THỜI-K̀ ĐỆ-NHỊ CỘNG-H̉A
Trở lại với chủ-đề của bài-viết
này.
Nhóm tỉnh
ra
của Giáo-Sư Keith.
W. Taylor ít
nhất qua
cuốn
NhỮng TiẾng Nói tỪ NỀN ĐỆ-NhỊ
ViỆt-Nam CỘng-Ḥa (1967-1975)
này, đă chia thời-ḱ Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Ḥa ra làm 2 giai-đoạn:
1) 1963-1966
là Giai-Đoạn
Hỗn-Loạn
2) 1967-1975
là Giai-Đoạn Thử-Nghiệm Dân-Chủ Đại-Nghị,
gọi tắt là Giai-Đoạn Dân-Chủ.
So với t́nh-h́nh thấy trên thực-tế, có
thể có người không hẳn đồng-í gọi
thời-gian 1967-1975
là Giai-Đoạn
Dân-Chủ.
Tuy nhiên, lắng nghe “TiẾng Nói cỦa NỀn ĐỆ-NhỊ
ViỆt-Nam CỘng-Ḥa”,
tôi thử đọc qua, thí-dụ bài tham-luận của
Thẩm-Phán Hoa-Ḱ Phan Quang Tuệ,
“From
the First to the Second Republic: From Csylla to Charybdis”:
Scylla
và Charybdis
là hai con hải-quái trong thần-thoại Hy-Lạp, hùng-cứ 2 bên đối-nghịch nhau
ở eo biển Messina,
giữa Italy
và Sicily.
Hai con quái biển phù-phép chống nhau, bên th́ biến thành
con quỷ 6-đầu với mỗi-đầu-3-hàng-nanh-nhọn,
bên th́ tạo thành một ḍng nước xoáy;
kết-quả là, trên
đường băng qua eo biển này, thủy-thủ mà
gặp thủy-quái th́ đa-phần mạng-vong, c̣n hải-thuyền
mà gặp hải-hiểm nước xoáy th́ toàn-phần tiêu-vong.
Để ví-von v́ sao Giai-Đoạn
Dân-Chủ (1-4-1967– 30-4-1975) của Thời-Ḱ Đệ-Nhị Việt-Nam
Cộng-Ḥa
không đơm hoa, dù đă có nhiều hạt giống
tinh-anh (nếp sống văn-minh
và dân-chủ cao-độ so với Miền Bắc u-tối cùng thời), Ông Phan Quang Tuệ,
trưởng-nam của Bác-Sĩ Chính-Trị-Gia Phan Quang Đán tên-tuổi một thời,
đă nhắc đến Scylla
và Charybdis,
là tượng-trưng cho Hoa-Ḱ,
qua Nixon
và Kissinger
một bên, cùng Việt-Cộng
qua Hoa-Cộng
với Mao
Trạch Đông
và Chu
Ân Lai
một bên, khiến cho con thuyền Việt-Nam
ngày nay phải đứng trước cơ nguy nước
xoáy của kẻ thù Bắc-phương.
KẾT-LUẬN
Nay phân-chia lại thời-đoạn cho Việt-Nam Cộng-Ḥa, ta có:
Thời-Ḱ Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa=
1)
Giai-đoạn Chuyển-Tiếp:
từ
7-1954 đến 10-1955
2)
Giai-đoạn Độc-Đoán
Nhẹ:
từ 1955 đến
1960
3)
Giai-đoạn Độc-Đoán Nặng: từ
1960 đến 1-11-1963
Thời-Ḱ Đệ-Nhị
Cộng-Ḥa=
1)
Giai-Đoạn Hỗn-Loạn:
từ 2-11-1963 đến 1966
2)
Giai-Đoạn Dân-Chủ:
từ 1-4-1967 đến 30-4-75
Vấn-đề ở đây không phải là cách-thức
phân-chia thời-đoạn như trên, mà là dựa vào
thời-đoạn như trên để làm căn-cứ
cho việc KHEN/CHÊ TỐT/XẤU mỗi khi phê-b́nh Đệ-Nhất
và Đệ-Nhị
Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Xin nói nôm-na và ngắn-gọn là phía hoài-Ngô chỉ nên đề-cao và
tự-hào về thời-ḱ
tương-đối “vàng
son” (có vàng nhưng cũng có thau)
của Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa là Giai-Đoạn Độc-Đoán Nhẹ; đừng vơ luôn
cả Giai-Đoạn
Độc-Đoán Nặng vào, v́ không thuyết-phục được
những người khách-quan. Đồng-thời,
khi chỉ-trích t́nh-trạng bất-ổn của Đệ-Nhị
Cộng-Ḥa th́ cũng nên thu gọn trong Giai-Đoạn
Hỗn-Loạn,
không nên quy-trách chung cho cả những thành-tựu trong Giai-Đoạn Dân-Chủ (phần nào đă được
nêu ra trong sách “Voices
from the Second Republic of South
VietNam” – Những Tiếng Nói từ Nền Đệ-Nhị
Việt-Nam Cộng-Ḥa.)
Bản-thân tôi đă từng là Ki-Tô-Hữu,
rồi Cơ-Đốc-Nhân
[qua nhiều hệ-phái]; nhưng tôi không chỉ nghe theo các
sách và lời “nhiệm ư” của các
linh-mục và mục-sư, mà tôi đă tự ḿnh t́m đọc toàn-văn
cuốn sách Kinh
Thánh,
nên tôi có đủ can-đảm nhận-chân
Lẽ
Thật
mỗi khi có người đề-cập/trích-dẫn chính những Lời Chúa được in rành-rành
trong Thánh-Kinh.