TRUNG-TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG

ĐẠI-BIỂU CHÍNH-PHỦ TẠI VÙNG I

   

 

 

        Tư-Lệnh Quân-Đoàn I & Quân-Khu I, Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng được hầu hết mọi người khâm-phục.  Ông đă dành nhiều tâm-trí, công-sức, và th́-giờ vào các cuộc hành-quân hơn là vào công việc văn-pḥng.  Ông thường-xuyên mặc chiến-phục, đội mũ sắt, mang áo giáp, bay đến tận từng đồn+chốt khắp Quân-Khu, để quan-sát, nghiên-cứu t́nh-h́nh tại chỗ, và kiểm-tra tác-phong kỷ-luật của các cấp quân-nhân.  Bản-thân ông ít thích truy-hoan, nên cấm sĩ-quan thuộc quyền đến khiêu-vũ ở các nhà hàng ca+vũ+nhạc, khiến các Tỉnh-Trưởng và Thị-Trưởng trong Vùng cấm luôn cả các pḥng trà ca-nhạc tổ-chức khiêu-vũ cho bất-cứ giới khách hàng nào.

        Đó là tóm-tắt những nét chính về Tướng Trưởng được nhiều người nhận thấy hoặc đồn miệng với nhau.

 

        Riêng đối với tôi, ông c̣n là Đại-Biểu Chính-Phủ, tức Thủ-Hiến, của Vùng I, nhất là sau khi Ṭa Đại-Biểu Chính-Phủ đă bị giải-tán, chức-vụ Phụ-Tá Hành-Chánh cho Tư-Lệnh Quân-Khu cũng bị băi-bỏ luôn.  Tư-Lệnh Quân-Đoàn/Quân-Khu cử-nhiệm các Tiểu-Khu-Trưởng và Đặc-Khu-Trưởng kiêm-nhiệm Tỉnh-Trưởng và Thị-Trưởng.  Tư-Lệnh Quân-Đoàn/Quân-Khu trực-tiếp điều-khiển Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng sở-tại, đồng-thời cũng là Chủ-Tịch Hội-Đồng B́nh-Định & Phát-Triển cầm đầu công-tác chuyên-môn của đa-số các Bộ quan-trọng thuộc Chính-Quyền Trung-Ương thực-hiện trong lănh-thổ Quân-Khu ḿnh.  Tóm lại, Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng là Chính-Quyền tại Miền Trung.

 

        Tôi trích sao gửi riêng cho ông biết điều-khoản trong Sắc-Lệnh của Thủ-Tướng quy-định việc tôi, Giám-Đốc Ngành Đặc-Biệt cấp Vùng, trực-tiếp báo-cáo t́nh-h́nh lên Tư-Lệnh Quân-Khu, liên-quan đến an-ninh và chính-trị nội-bộ, thuộc thẩm-quyền của Đại-Biểu Chính-Phủ, là chức-vụ mà ông kiêm-nhiệm hiển-nhiên.

Sau đó, tôi chính-thức tường-tŕnh lên ông những vấn-đề nội-chính của Quốc-Gia.

 

Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng

 

        Tôi có trách-nhiệm trực-tiếp báo-cáo t́nh-h́nh lên Tư-Lệnh Quân-Khu, song tôi ít gặp Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng của Quân-Khu I, nếu so-sánh với các Trung-Tướng Vĩnh Lộc, Lữ Lan, Ngô Du, Nguyễn Văn Toàn, như hồi tôi c̣n coi Ngành Cảnh-Sát Đặc-Biệt ở Quân-Khu II.  Trung-Tướng Trưởng dùng phần lớn th́-giờ của ông để đi thị-sát bên ngoài, ít ở văn-pḥng.

 

        Tuy thế, trong tâm-tưởng tôi cảm thấy gặp-gỡ và gần-gũi Tướng Trưởng thường-xuyên.  Viên trung-tướng ấy, như ở Sài-G̣n cũng như ở Vùng II tôi nghe nhiều người ca-tụng, quả là một nhân-vật lư-tưởng của xă-hội đương-thời.  Địa-vị của người quân-nhân đă được nâng lên hàng đầu trong bốn giới, Quân Công Cán Chính, mà người quân-nhân ấy lại đă ở trên đỉnh cao của cả cấp-bậc lẫn chức-vụ (“Tướng Vùng” là “Lănh Chúa” rồi).  Nào là được đề-bạt lên chức-vụ cao hơn ở Trung-Ương nhưng ông thoái-thác, t́nh-nguyện ở lại trấn-giữ vùng địa-đầu đầy gian-nguy này của Quê Hương; nào là ông tận-tụy dồn hết tâm-trí, công-sức và th́-giờ vào công-cuộc chống Cộng ngay ở trận tiền, hiếm khi hưởng-lạc ở thị-thành; nào là ông được Tổ-Chức Liên-Pḥng Đông-Nam-Á (SEATO= South East Asia Treaty Organization) mời qua Thái-Lan hằng tháng thuyết-tŕnh về nỗ-lực và kinh-nghiệm chiến-trường Việt-Nam; nào là ông không có tham-vọng chính-trị nên được Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu tin yêu, an-tâm rằng ông sẽ không bao giờ ly-khai Trung-Ương như cựu Trung-Tướng Nguyễn Chánh Thi ngày xưa...

 

        Một hôm, trong lúc chờ-đợi tập-trung tài-liệu để đem đi họp tại văn-pḥng Đại-Tá Hoàng Mạnh Đáng, Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đoàn I và Quân-Khu I, một số sĩ-quan cao-cấp đă ngẫu-nhiên đề-cập với tôi về Trung-Tướng Trưởng: nào là ông đă nghiêm-phạt một viên tướng Tư-Lệnh Sư-Đoàn v́ liên-đới chịu trách-nhiệm trong vụ một đơn-vị thuộc quyền lùa ḅ của dân-nhân; nào là ông đă trừng-trị một đại-tá trưởng cơ-quan v́ tham-nhũng đối với ngân-sách Phát-Triển Nông-Thôn; nào là ông dùng trực-thăng bay khắp Quân-Khu đích-thân kiểm-soát t́nh-h́nh mọi mặt, mọi nơi, kể cả giám-sát tác-phong kỷ-luật của quân-nhân dọc đường cũng như tại các đồn trại xa xôi, vào những ngày giờ bất-ngờ nhất; nào là ông chỉ mặc chiến-phục với áo giáp, mũ sắt, sẵn-sàng tác-chiến bất-cứ lúc nào...  Dư-luận cũng đồn là ông đă từng tát tai một Bộ-Trưởng hănh-tiến tại phi-trường...

        Vô-số việc làm điển-hỉnh của Tướng Trưởng đă được kể lại với tôi bằng lời-lẽ và thái-độ đầy thán-phục, gây trong tôi một xúc-động mạnh và một ấn-tượng sâu, đến nỗi sau đó, lúc tôi leo lên giữa chừng cầu thang dẫn đến văn-pḥng của Tướng Trưởng và Đại-Tá Đáng, th́nh-ĺnh gặp Tướng Trưởng bước xuống, tôi bỗng khựng người.  Sừng-sững trước tôi quả thật là h́nh-ảnh vĩ-đại của một người-hùng mặc-áo-giáp đội-mũ-sắt, thực-tế mà hoang-đường như trong huyền-thoại thời xưa.  Ông hỏi tôi đến làm ǵ, tôi nghẹn-ngào không nói nên lời, khiến Đại-Tá Lê Quang Nhơn, Chánh Sở I An-Ninh Quân-Đội, cùng đi với tôi, phải trả lời thay.

 

        Thế là tôi đă có một lănh-tụ chống Cộng khả-tín cho toàn Vùng Chiến-Thuật sôi-sục này.

 

Vấn-Đề Quân-Nhân Vô-Kỷ-Luật

 

        Khi người lính ở trong quân-sở hoặc quân-cứ th́ quân-phong quân-kỷ có thể được xem là việc riêng trong gia-đ́nh Quân-Lực; nhưng một khi người lính đă đi ra ngoài th́ mọi ngôn-ngữ cử-chỉ dù nhỏ-nhặt cũng ít nhiều ảnh-hưởng đến mối quan-hệ giữa Quân và Dân.

 

        So với tổng-số quân-nhân tại-ngũ th́ tỷ-lệ cá-nhân vô-kỷ-luật chỉ là một con số nhỏ; nhưng những việc làm sai-quấy của số ít này đă gây bất-b́nh và ác-cảm không ít trong dân-nhân đối với binh-giới nói chung, tạo thành một vấn-đề trong lĩnh-vực chính-trị nội-bộ của chế-độ Việt-Nam Cộng-Ḥa.

        Khi nào có một người nào vi-phạm luật-pháp hoặc luật-lệ hiện-hành mà mặc quân-phục rơ-ràng hoặc tự-xưng là quân-nhân, th́ Cảnh-Sát chỉ cần báo cho Quân-Cảnh đến chấp-lư mà thôi.  Thế là Cảnh-Sát, ở đây, là Cảnh-Sát Sắc-Phục, không theo dơi, thống-kê, phân-loại, so-sánh tăng/giảm, t́m hiểu nguyên-nhân, v.v...; vả lại, dù có muốn cũng không làm được, v́ không biết rơ tính-danh, số quân-tịch, cấp-bậc, đơn-vị, nội-dung sự phạm-pháp, cách giải-quyết, và kết-quả thế nào.

 

        Nhưng đó lại là một vấn-đề nội-chính.  Nó thuộc phạm-vi nghiên-cứu của Ngành Đặc-Cảnh (Cảnh-Sát Đặc-Biệt); nó xảy ra trong vùng sinh-hoạt của người dân, là vùng mà tôi đă đề-nghị và Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu sở-quan đă đồng-ư giao cho Ngành Đặc-Cảnh chịu trách-nhiệm về an-ninh chung; và nó cũng là một mục-tiêu hoạt-động hằng ngày của chính trung-tướng Ngô Quang Trưởng.  Phải bảo-toàn h́nh-ảnh tốt đẹp của người chiến-sĩ đang hy-sinh xương máu trên chiến-trường; phải duy-tŕ mối t́nh khắng-khít cá+nước quân dân; phải xóa sạch mọi t́-vết, không để cho kẻ thù khai-thác vơ đũa cả nắm chê-bai hàng-ngũ Quốc-Gia chúng ta.

 

        Lần đầu tiên là vào cuối năm 1973, tôi mới đến Vùng I, tôi nêu đề-tài này lên trong một buổi họp đặc-biệt của nhóm người tạm gọi là Ủy-Ban Phối-Hợp T́nh-Báo Quân-Khu I, mà Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng giao cho Đại-Tá Hoàng Mạnh Đáng, Tham Mưu Trưởng, đại-diện, chủ-tọa các buổi họp hằng tuần.

 

Tôi lấy quốc-lộ số I là con đường bộ huyết-mạch nối liền từ thủ-đô Sài-G̣n ra các Tỉnh Miền Trung và miệt ngoài, đoạn từ Sa-Huỳnh cực-Nam của Tỉnh Quảng-Ngăi ra đến Đèo Hải-Vân cực-Bắc của Tỉnh Quảng-Nam, trong đó có Thị-Xă Đà-Nẵng, để làm bối-cảnh điển-h́nh.  Trên con đường này, không những chỉ có sự đi lại của mọi tầng-lớp và thành-phần dân-nhân, các loại ngoại-kiều, mà c̣n có sự hiện-diện thường-xuyên và tập-trung hoạt-động của mọi cơ-quan và đơn-vị thi-hành luật-pháp và duy-tŕ an-ninh trật-tự chung.  Vào thời-điểm đó, trung-b́nh hai tháng là có một vụ quân-nhân dùng súng bắn bừa vào xe đ̣ chở đầy hành-khách đang chạy trên quốc-lộ số I, gây thương-tích cho một vài thường-dân.

 

        Trong pḥng làm việc của Đại-Tá Đáng có một bộ-phận giống như chi-nhánh của hệ-thống nội-đàm mà tôi đoán là máy chính nằm trong pḥng làm việc của Trung-Tướng Trưởng.  Có lẽ ông đă mở máy mà nghe Ủy-Ban chúng tôi thảo-luận những ǵ.  Lần họp kế sau, Đại-Tá Đáng khéo-léo nhắc chúng tôi đừng đề-cập nhiều những vấn-đề nội-bộ, ư nói v́ có Người Bạn Đồng-Minh (viên-chức CIA cố-vấn của Đặc-Cảnh) và thông dịch-viên cùng nghe.

 

        Tôi c̣n nhớ ngày xưa, khi tôi c̣n làm giám-đốc chương-tŕnh phát-thanh “Tiếng Nói Quân Đội” tại Đệ-Nhị Quân-Khu, tôi phải đệ-tŕnh bản thảo bài xă-luận của tôi viết hằng ngày lên cho Thiếu-Tướng (sau này là Trung-Tướng) Lê Văn Nghiêm, Tư-Lệnh Quân-Khu, duyệt trước, để được đọc trên Đài vào chiều cùng ngày và được đăng trên báo “Tin Tức” phổ-biến khắp Quân-Khu vào sáng hôm sau.  Có một lần, bài xă-luận của tôi nhắc-nhở tài-xế quân-xa tuân giữ luật-lệ lưu-thông khi lái xe trên đường thành-phố.  Tôi quan-niệm rằng: khi một người lính, dù là hạng chót (binh nh́), đứng gác ở một cổng đồn, anh ta có quyền chận đường một ông Bộ-Trưởng; khi một nhân-viên Quan-Thuế (dù là hạ-đẳng) soát hàng ở một phi-trường, anh ta có quyền lục xách một viên đại-tướng; vậy th́, khi một đại-diện Cảnh-Sát (dù là sơ-cấp) kiểm-soát xe cộ, tại sao anh ta lại không có quyền chỉ dẫn đúng luật đi đường cho các quân-xa?  Tướng Nghiêm phê vào bên lề bản thảo của tôi hai chữ “con cú”.

Pḥng Năm chúng tôi đoán ư ông cho rằng bài xă-luận ấy có phần cay-cú hoặc xoi-mói như “cú vọ” (?), nên đă xếp bỏ.

Phần đông cấp trên không muốn nghe người khác nói đến khuyết-điểm của cấp dưới thuộc phần trách-nhiệm của ḿnh.

 

        Tuy nhiên, việc của tôi th́ tôi vẫn phải làm.  Ngoài Tư-Lệnh Quân-Khu ra, tôi c̣n báo-cáo lên Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, là Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.  Nơi đây chuyển lên Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia kiêm Đặc-Ủy-Trưởng T́nh-Báo Trung-Ương, là Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc B́nh, để tŕnh tiếp lên Tổng-Thống.  Như thế th́ Trung-Ương vẫn biết đến vấn-đề đó như thường.

 

        Sau đó, tôi không tŕnh-bày sự-việc nói trên trong các buổi họp như thế nữa.  Tôi làm công-văn báo-cáo hằng tháng lên Tư-Lệnh Quân-Khu.

        So-sánh th́ thấy, vào cuối năm 1973, trung-b́nh hai tháng mới có một vụ, gây thương-tích cho một vài thường-dân; nhưng đến mấy tháng đầu năm 1975, liền trước ngày thất-thủ Quân-Khu địa-đầu này, tổng-số thống-kê mỗi tháng đă lên đến cả chục vụ, gây cả tử-thương cho nhiều hành-khách, trong đó có một số là quân-nhân, và có lần cho cả một tu-sĩ của Đạo Ky-Tô.

 

Vấn-Đề Kiểm-Soát các Cựu-Can & Cựu-Cán Việt-Cộng

 

        Phong-trào phản-đối Chiến-Tranh Việt-Nam ở Hoa-Kỳ và một số nước khác đă mở đường cho Hiệp Định Paris 1973.  Hậu-quả trầm-trọng và cụ-thể nhất là Mỹ giảm bớt dần dần để rồi chấm dứt hẳn viện-trợ cho Việt-Nam Cộng-Ḥa.

 

        Sau vụ Việt-Cộng tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân năm 1968, hoạt động của Quân-Lực cũng như của Đặc-Cảnh gia-tăng tối đa; do đó, số cán-bộ, bộ-đội, và cơ-sở địch bị bắt cũng gia-tăng rất nhiều.  Chính-Quyền phải xây-cất thêm trại tạm giam ở mỗi Tỉnh, một số trại giam thuộc Trung-Ương, và một trại tập-trung tại mỗi Vùng Chiến-Thuật, để gom lại các phần-tử nguy-hiểm được đưa từ các Tỉnh về.  Thật ra, trách-nhiệm của Ngành Đặc-Cảnh chỉ giới-hạn trong việc bắt hung-thủ và nghi-can, điều-tra, lập hồ-sơ truy-tố trước Ủy-Ban An-Ninh, hoặc chuyển nội-vụ qua Ṭa Án Quân-Sự Mặt Trận; c̣n th́ chỉ đích-thân tạm giữ một số ít đối-tượng đặc-biệt trong một thời-gian ngắn cần-thiết cho việc hỏi cung hoặc xây-dựng thành mật-viên, tại Trung-Tâm Thẩm-Vấn là nơi hội đủ các điều-kiện tiêu-chuẩn tối-thiểu được sự cố-vấn và yểm-trợ trực-tiếp của các chuyên-gia Hoa-Kỳ. Ngoài ra, chế-độ giam-giữ và đối-xử trước khi thành-án th́ thuộc phần đảm-trách của các Trại Tạm Giam ở phía Sắc-Phục của Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực, Trung-Tâm Cải-Huấn thuộc Bộ Nội-Vụ, hoặc Trại Giam Tù-Binh Cộng-Sản Việt-Nam thuộc Bộ Quốc-Pḥng; và sau khi thành-án th́ do Tổng-Nha Cải-Huấn hoặc Bộ Tổng Tham Mưu quản-lư và kiểm-soát cho đến ngày các đương-nhân được trả tự-do.

 

        Tuy thế, Ngành Đặc-Cảnh vẫn là cái đích chính của mọi sự chỉ-trích liên-quan đến tù và trại giam.  Do đó, Ngành Đặc-Cảnh bị đặt trong một t́nh-trạng tiến/thoái lưỡng-nan.  Một mặt th́ hứng chịu phần lớn dư-luận công-kích là chế-độ có quá nhiều tù và trại giam: trại giam th́ thiếu tiện-nghi, mà tù th́ bị ngược-đăi, thậm-chí tiếng lóng “bị nhốt chuồng cọp”, là một h́nh-thức kỷ-luật áp-dụng ở đâu ngoài Ngành Đặc-Cảnh, cũng bị dịch sai và hiểu lầm một cách có ác-ư là tù bị nhốt chung chuồng với cọp. Một mặt th́ phải rút ngắn thời-gian điều-tra, lập hồ-sơ; riêng tại Trung-Tâm Thẩm-Vấn th́ phải đi trước các trại giam khác về việc: tăng thêm thức ăn; trổ thêm cửa sổ; tăng thêm hệ-thống ánh sáng và vệ-sinh, y-tế; giảm bớt số người giam chung trong mỗi pḥng – nghĩa là tăng thêm pḥng giam, nhưng đồng-thời lại phải giảm bớt tổng-số pḥng giam!

 

        T́nh-h́nh chung được đặt dưới sự kiểm-soát thường-xuyên và bất-thần của vô-số tổ-chức và nhân-vật: trong Chính-Quyền th́ ngoài các Thanh-Tra nội-bộ từ cấp Vùng lên đến cấp Trung-Ương c̣n có Biện-Lư, các phái đoàn Viện Giám-Sát, Dân-Biểu, các cơ-quan Y-Tế, Xă-Hội, v.v...; ngoài Chính-Quyền th́ có các tu-sĩ thuộc mọi giáo-hội, các hội-đoàn từ-thiện, các nhà báo, v.v..., chưa kể áp-lực từ các nhóm tranh-đấu, như “Phong-Trào Đ̣i Cải-Thiện Chế-Độ Lao-Tù”, v.v...

 

        Căng nhất là vào cuối năm 1972, giai đoạn chuẩn-bị gấp rút cho Hiệp-Định Paris 1973, Chính-Quyền Trung-Ương trù-liệu giảm bớt trại giam bằng cách đóng cửa, hoặc bỏ bớt một số pḥng, và giảm-thiểu tù bằng nhiều cách: chỉ giữ lại một số can-phạm quan-trọng và nguy-hiểm nhất, c̣n th́ trả tự-do cho những cá-nhân được sự bảo-lănh của thân-nhân là công-chức hoặc sĩ-quan cao-cấp của Việt-Nam Cộng-Ḥa; cho những phần-tử có khai-báo thật-thà được hưởng quy-chế hồi-chánh-viên; chuyển những cán+cơ hoạt động có vũ-trang qua diện tù-binh để trao trả cho đối-phương; phóng-thích, nhưng chỉ định cư-trú, một số đông những cựu-can, cựu-cán có tiền-án tiền-tích hoạt-động cho Việt-Cộng, tuy không hội đủ yếu-tố để bị kết tội giam lâu nhưng bị xét thấy có hại cho an-ninh chung, và những cán-binh tuy xin ra hồi-chính nhưng tránh né khai-báo và có chỉ-dấu là trá-hàng, v.v...

        Ngoại-trừ các tù-nhân đang c̣n thụ-án và các tù-binh đang chờ được trao trả cho bên kia, tất cả các thành-phần trên đều là đối-tượng cho Ngành Đặc-Cảnh giám-thị, theo dơi, và nếu cần th́ đương-đầu. Nhưng Ngành Đặc-Cảnh lại không được hỏi ư-kiến về nơi chỉ định cư-trú cho các đối-tượng này.

 

        Thời-gian đó, nhiệm-sở của tôi là Vùng II.  Một hôm, trong một buổi họp của Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II, tại Nha Trang, Phó Tư-Lệnh là Đại-Tá Nguyễn Cắt, chủ-tọa, đă ra lệnh cho Bộ Tham-Mưu thuộc quyền hội-ư với các Tỉnh-Trưởng để chọn một Tỉnh trong Quân-Khu làm địa-hạt chỉ-định cư-trú chung cho tất cả các cựu-can, cựu-cán và hồi-chánh-viên đặc-biệt nói trên tập-trung về từ các Tỉnh và Thị-Xă khác khắp Quân-Khu.

Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II không mời Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng II cùng dự buổi họp này.

        Bản-thân tôi vốn có những quan-hệ công-vụ chặt-chẽ với các sĩ-quan cao-cấp đứng đầu các cơ-quan Quân-Báo và Quân-An ở cấp Quân-Đoàn và Quân-Khu, nên tuy không được mời đến nhưng tôi vẫn lợi-dụng điều đó để đến dự các buổi họp nội-bộ của họ mỗi sáng sớm tại Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn/Quân-Khu. Qua việc làm của Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II, tôi thấy rơ là Trung-Ương muốn thay thế các trại giam hữu-h́nh, mà diện-tích chỉ xấp-xỉ một ô phố, bằng những trại giam vô-h́nh, mà sức chứa là lĩnh-thổ của cả một Tỉnh, vô vàn rộng lớn hơn.  Biện-pháp ấy chắc-chắn sẽ bị đả-phá dữ-dội hơn, nhất là bởi giới truyền-thông nước ngoài, tai-hại vô cùng cho chế-độ Miền Nam.  Không thể im-lặng đồng-t́nh, tôi đă đứng lên phát-biểu ư-kiến:  “Tôi tin là sẽ không có một Tỉnh-Trưởng nào, nếu thật-sự là Tỉnh-Trưởng, mà lại thuận nhận cho Tỉnh ḿnh trở thành một địa-phương quản-thúc tù.”  Đại-tá Cắt bất-b́nh, nh́n thẳng mặt tôi:  “Anh tưởng là tôi không trừng-phạt được các Tỉnh-Trưởng nào không tuân lệnh của Quân-Khu sao?”

        Cũng như phần đông các nhà lănh-đạo ở cấp quốc-gia, ông quan-niệm mỗi Tỉnh-Trưởng chỉ là một Tiểu-Khu-Trưởng, nên lấy con mắt quân-sự mà nh́n chính-sự, và áp-đặt mệnh-lệnh hành-pháp bằng kỷ-luật nhà binh.

        Sau khi nghe ư-kiến của tôi qua thông-dịch-viên, các viên-chức cao-cấp trong Bộ Tư-Lệnh Cố-Vấn Quân-Sự và Viện-Trợ Kinh-Tế của Hoa-Kỳ đă đưa ngón tay cái chĩa lên trời về phía tôi mà gật gật đầu. Thấy thế, tôi không nói ǵ thêm.

 

        Sau đó, không có Tỉnh nào được chọn làm lĩnh-thổ quản-thúc tù chính-trị cho toàn Vùng II.

*

        Biện-pháp áp-dụng từ đó cho đến sau ngày đă có Hiệp-Định Paris là cho trở về quê cũ, người nào làng nấy, cư-trú cố-định và hạn-chế đi lại, các cựu-can cựu-cán và hồi-chính-viên đặc-biệt mà tin-tức t́nh-báo cũng như nhận xét của các giới-chức Cải-Huấn thuộc Bộ Nội-Vụ và Phục-Hoạt thuộc Bộ Chiêu-Hồi đă xếp vào loại “ḿn ngụy-trang”, “khổ-nhục-kế”, chưa cho phép tự-do hoàn-toàn.  Tùy theo sự xếp loại, các phần-tử ấy phải đến tŕnh-diện mỗi tháng, mỗi hai tuần, hoặc mỗi tuần, tại Pḥng Đặc-Cảnh Quận sở-tại; tại đây, nhân-viên chuyên-trách có lập một cuốn sổ, để các đương-nhân khi đến th́ ghi tên, tuổi, địa-chỉ, ngày giờ đến tŕnh-diện, và kư tên vào, làm bằng-chứng đă được kiểm-soát để lưu hồ-sơ.

 

        Tại Vùng I, tin-tức nội-tuyến cho biết có một số phần-tử thuộc diện nói trên đă tái-hoạt-động cho Việt-Cộng.  Tôi liền đích-thân đến thử một số Xă thuộc Tỉnh Quảng-Nam để t́m hiểu tại chỗ xem sao.

        Về việc tŕnh-diện: có một số người liên-hệ đă ăn nên làm ra, hoặc đă trở thành đảng-viên quan-trọng của Việt-Nam Quốc-Dân Đảng, không c̣n đến tŕnh-diện tại Pḥng Đặc-Cảnh Quận hoăc Cuộc Cảnh-Sát Xă nữa, mà chính nhân-viên hữu-trách phải mang sổ đi t́m, bất-cứ ở đâu, lúc nào, có khi gặp rồi mà c̣n phải chờ chực, để được đối-tượng kư-chỉ vào sổ tŕnh-diện, cho có h́nh-thức là đă kiểm-soát họ rồi.

 

        Về việc chỉ-định cư-trú và hạn-chế đi lại: dân-chúng được tự-do đi lại và cư-trú; trừ một ít trường-hợp đặc-biệt, Cảnh-Sát không soát xét tờ khai gia-đ́nh; Cảnh-Sát cũng ít phối-hợp công-tác với Xă-Trưởng.  Do đó, có một số phần-tử nguy-hiểm đă rời khỏi địa-phương; họ được các Chủ-Tịch Ủy-Ban Hành-Chánh Xă nguyên-quán cấp giấy phép cho chính-thức ra đi, nhất là vào các thị-xă, đặc-biệt là vào Đà Nẵng, là những nơi họ bị cấm đến, để thoát khỏi sự kiểm-soát của cơ-quan an-ninh và dễ tái-hoạt-động sau khi đă đổi vùng.  Lúc đầu th́ ít, về sau th́ càng ngày càng nhiều.

        Cả một vấn-đề hệ-trọng như thế, mà mấy năm trời không ai hay biết ǵ.

 

Vấn-Đề Dân Quê Bỏ Làng Đi Theo Việt-Cộng

 

        Vào khoảng cuối năm 1973, trung-b́nh vài tháng mới có một vài thanh-nam miền quê vắng nhà lâu ngày; điều-tra th́ được biết họ đă lén-lút vào rừng theo cộng-quân.

        Tôi cũng cho lập bảng thống-kê hằng tháng về sự-kiện này th́ thấy con số mỗi ngày một gia-tăng.

        Cũng như đối với các vấn-đề khác, tôi ra lệnh cho cấp dưới ghi-nhận, báo-cáo, lập bảng thống-kê, rồi so-sánh mức-độ và cường-độ tăng/giảm thế nào, không phải chỉ để biết suông mà thôi.  Tôi đă chỉ-thị cho các Sở Đặc-Cảnh Tỉnh tŕnh lên Tỉnh-Trưởng sở-tại với đề-nghị có biện-pháp ngăn+trừng.  Tôi cũng đă tŕnh lên Tư-Lệnh Quân-Khu, đồng-thời tŕnh lên Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, để các nơi này tŕnh tiếp lên cho Tổng-Thống được biết về vấn-đề này.

 

        Về phần Cảnh-Lực th́ tại mỗi Xă cũng như mỗi Phường đều có một Cuộc Cảnh-Sát, nhưng chỉ là Cảnh-Sát Sắc-Phục, kiểm-soát vệ-sinh, điều-khiển lưu-thông, kiểm-tra dân-số, chấp-lư các vụ vi-phạm luật-lệ h́nh-sự và thể-lệ hành-chánh hiện-hành.  Đúng ra th́ họ cũng có bổn-phận ngăn-chận không để người dân từ vùng Quốc-Gia di-chuyển qua vùng cộng-sản, v́ là vi-phạm quy-định hành-chánh; nhưng phần lớn họ chỉ giới-hạn nhiệm-vụ trong việc thỉnh-thoảng xét hỏi giấy tờ những người khả-nghi, c̣n những ǵ hằng ngày có liên-quan đến cộng-sản, tức là chính-trị, th́ họ phó mặc cho Ngành Đặc-Cảnh đảm-đương.

Vậy mà Trung-Ương không thiết-lập cơ-cấu Đặc-Cảnh xuống thấu cấp Xă, mặc dù Việt-Cộng từ xưa đă biết xây-dựng cơ-sở từ cấp Tổ Tam-Tam leo lần lên cấp Khóm Thôn, trong từng Xă một, rồi tiến lên cấp cao hơn.

 

        Để đối-phó với Việt-Cộng ở cấp Xă, Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia chỉ-định Trưởng Cuộc Cảnh-Sát Xă kiêm-nhiệm đại-diện Ngành Đặc-Cảnh tại địa-phương ḿnh; nhưng hầu hết các viên-chức này không am-thạo, mà cũng không ham-thích, công-tác chính-trị và phản-gián, vả lại không có nhân-viên đặc-trách tại Cuộc để giữ phần-hành chuyên-môn, nên tuy có đại-diện mà cũng gần như không.  Dù theo lư-thuyết th́ mỗi Cuộc đều có một vài nhân-viên phụ-trách Chương-Tŕnh “Phụng Hoàng”, xem như để đương-đầu với Việt-Cộng, nhưng trên thực-tế th́ đa-số các nhân-viên này chỉ là những kư-sự văn-pḥng, lấy tài-liệu từ Ủy-Ban Phụng-Hoàng Quận, hầu hết do Ngành Đặc-Cảnh cung-cấp, để lập hồ-sơ, thống-kê, biểu-đồ, về t́nh-h́nh hạ-tầng cơ-sở địch, chỉ để thuyết-tŕnh mỗi khi có phái-đoàn đến thanh-tra hoặc mang đi họp, chứ hiếm khi tự ḿnh thu-thập tin-tức hoặc tự ḿnh t́m bắt tên Việt-Cộng nào.

 

        Về phần chính-quyền Xă th́ tuy có một Ủy-Ban Hành-Chánh nhưng nhiều nơi mọi việc đều do một ḿnh Xă-Trưởng nắm trong tay.  Thật ra, các vấn-đề quan-trọng đều do chính-quyền Quận chủ-tŕ.  Xă-Trưởng chỉ dự họp, dự lễ, kư các loại hộ-sự chứng-thư; cũng có nơi th́ lập danh-sách nhận tiền trợ-cấp di-tản, bồi-thường thiệt-hại chiến-tranh, v.v...  Hầu hết Xă-Trưởng đều không quan-tâm đến việc dân làng bỏ trốn theo đối-phương; nhưng, dù có bận ḷng th́ cũng không làm ǵ được, v́ không có lực-lượng, không chỉ-huy được Cảnh-Sát hay Nghĩa-Quân.  Đa-số Xă-Trưởng chỉ có mặt trong Xă vào ban ngày, c̣n ban đêm th́ về ngủ ở quận-lỵ hoặc tỉnh-lỵ cho được an-toàn.

 

        Trong t́nh-trạng chiến-tranh, ṇng-cốt của chính-quyền Xă là một trung-đội Nghĩa-Quân, do một hạ-sĩ-quan thuộc Chi-Khu biệt-phái đến chỉ-huy.  Lực-lượng quân-sự này canh gác một số yếu-điểm vào ban đêm.  Từ năm 1973, Quân-Lực thành-lập thêm một tổ-chức lănh-thổ cấp Xă, gọi là Phân-Chi-Khu, do một sĩ-quan chỉ-huy đơn-vị Nghĩa-Quân nói trên.  Phân-Chi-Khu hầu như là một văn-pḥng tham-mưu hơn là một bộ chỉ-huy hành-quân.  Và không phải Phân-Chi-Khu-Trưởng nào cũng ở lại tại Xă vào ban đêm.

 

        Phân-Chi-Khu-Trưởng, có lính dưới quyền, trở thành một thế-lực mâu-thuẫn với Xă-Trưởng.  Trong một đại-hội Phân-Chi-Khu thuộc Quân-Khu I tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Nghĩa-Quân Ḥa-Cầm, ở ngoại-ô Đà-Nẵng, do Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu chủ-tọa, nhiều Phân-Chi-Khu-Trưởng đă chỉ-trích các Xă-Trưởng là già-yếu, học-lực thấp, thiếu năng-động, v.v... trong lúc không có mặt các Xă-Trưởng.  Tổng-Thống Thiệu đă gợi ư cho các Phân-Chi-Khu-Trưởng kiêm luôn trách-nhiệm Xă-Trưởng thay thế các người này.  Báo-chí đă tường-thuật cái nhíu mày của Đại-Sứ Hoa-Kỳ, và đặt câu hỏi: tổng-thống nghĩ ǵ khi đ̣i xóa bỏ tư-cách dân-cử của Xă-Trưởng, là nhân-vật được dân bầu vào Hội-Đồng Xă và Hội-Đồng này cử ra, trong lúc Hội-Đồng Xă là một đơn-vị dân-cử cơ-bản trên đường dân-chủ-hóa để c̣n tiến tới bầu-cử Quận-Trưởng, Tỉnh-Trưởng, Thị-Trưởng, là các cấp c̣n lại trong hệ-thống Chính-Quyền Quốc-Gia?

 

        Dân làng bỏ theo Việt-Cộng là một căn bệnh truyền-nhiễm.  Chính-Quyền đă không ngừa bệnh mà cũng không chữa bệnh đúng cách.  Chế-độ không chịu nh́n thấy những nguyên-nhân đánh mất niềm tin của người dân, và cũng không chịu chọn những phương-sách thích-ứng để khôi-phục lại niềm tin ấy, v́ đă đặt quân-sự lên trên chính-trị và dân-sự, cả sau khi t́nh-h́nh đất nước đă mở vận-hội cho thế đối đầu quân-sự được bổ-sung thêm bằng thế đấu-tranh chính-trị trực diện với kẻ thù.

 

        Vấn-đề này đă vượt lên trên khả-năng và trách-nhiệm của một Tư-Lệnh Quân-Khu, tức Chính-Quyền Vùng, đặc-biệt là tướng Trưởng, viên tướng biên-thùy không có tham-vọng chính-trị nên chỉ giới-hạn cái nh́n trong con mắt nhà-binh.

 

        Vả lại, về mặt quân-sự (mà quân-sự th́ là chủ-yếu của Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Ḥa) tuy cao nhất là Chiến-Lược rồi mới xuống đến Chiến-Thuật, nhưng trên thực-tế th́ VNCH chỉ có Chiến-Thuật (các Vùng Chiến-Thuật).  Chiến-Lược hẳn ở Trung-Ương, nhưng nằm ở đâu?  Nói chi Chính-Lược.

 

        Riêng tại Vùng I, vào những tháng cuối-cùng của Việt-Nam Cộng-Ḥa, trung-b́nh mỗi tháng đă có hằng chục vụ dân làng bỏ vùng Quốc-Gia vào rừng núi sống với Việt-Cộng: không c̣n lẻ-tẻ từng người lâu lâu lén-lút một lần, mà là cả gia-đ́nh, nhiều gia-đ́nh đồng loạt, công-khai chuyển-nhượng nhà đất và thanh-toán tài-sản, ồn-ào chuẩn-bị, và ngang-nhiên kéo đi, cả giữa ban ngày, trước mắt các cơ-cấu chính-quyền và đơn-vị quân-lực tại hương-thôn.

*

        Trong các buổi họp tại Quân-Khu, các cấp lănh-đạo không đề-cập ǵ đến các vấn-đề then-chốt mà tôi đă nêu ra như trên.

        Dù phía Việt-Nam có cố giữ kín trong nội-bộ, nhưng chắc ǵ phía Hoa-Kỳ đă không nắm được những điểm khuyết/nhược đó trong sách-lược và thực-lực của Đồng-Minh ḿnh...

 

LÊ XUÂN NHUẬN  

 

(trích từ cuốn sách hồi-kư “Về Vùng Chiến-Tuyến” của Lê Xuân Nhuận, do nhà Văn Nghệ ở nam Cali xuất-bản vào năm 1996 – ISBN: 1-886566-15-1 )

Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng từ-trần tại Falls Church, Virginia, USA, ngày 22-1-2007.