ÔNG NGÔ Đ̀NH DIỆM LÀM THƠ ?

 

I

        

         Trong tháng 10 năm 2003, sắp-sửa đến ngày 2-11-2003 là ngày giỗ lần thứ 40 của cố Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm, Ông Trần Việt Yên San Jose đă đăng lên một số diễn-đàn liên-mạng một bài thơ Đường-luật và tin theo lời của Ông Lệ Khanh nào đó cho rằng đó là thơ của Ông Ngô Đ́nh Diệm sáng-tác vào năm 1953.

         Nguyên-văn như sau:

 

NĂM MƯƠI NĂM

ĐỌC BÀI THƠ "NỖI L̉NG" CỦA MỘT CHÍ SĨ

     Trần Việt Yên     

 

        T́nh cờ tôi gặp nhà thơ Lệ Khanh, trong câu chuyện hàn huyên, anh hỏi tôi:

        - "Có biết cụ Diệm làm thơ không?"

        - "Tôi chưa nghe nói" - tôi thành thực trả lời

        Anh kể:

        - "Cụ Diệm có một bài thơ làm từ năm 1953, Việt Yên muốn nghe tôi đọc cho nghe.

        - "Vâng xin anh đọc đi" - tôi vừa trả lời vừa sửa soạn giấy bút để ghi chép lại.

        Anh đọc bài thơ cho tôi chép:

 

        NỖI L̉NG

        Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông

        Hỏi bến: thuyền không, lái cũng không!

        Xe muối nặng nề thân vó Kư

        Đường mây rộng răi tiếc chim Hồng

        Vá trời lấp biển người đâu tá?

        Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!

        Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế

        Cắm sào đợi khách, thuở nào trong?

                (Chí sĩ) NGÔ Đ̀NH DIỆM 1953        

 

         Mới thoạt nghe bài thơ Lệ Khanh đọc, tự nhiện tôi rùng ḿnh, cảm xúc bài thơ đi thẳng vào tim óc, tôi nhẩm đi nhẩm lại bài thơ, gần như thuộc ḷng, 

         Trở lại với bài thơ NỖI L̉NG của chí sĩ NGÔ Đ̀NH DIỆM , tôi xin được nêu vài ư nghĩ thô thiển về bài thơ của cụ...

         Theo Lệ Khanh cho biết Cụ Diệm làm bài thơ này từ năm 1953, nếu trí nhớ không đánh lừa tôi th́...  lúc đó cụ Diệm chưa về nước chấp chánh, cụ c̣n đang lưu ngụ trong một nhà ḍng Thiên Chúa Giáo tại tiểu Bang Misouri (?) Hoa Kỳ .
Thời điểm đó, chiến cuộc Đông Dương đang diễn ra ác liệt...
Hội nghị Genève được h́nh thành nhằm t́m kiếm ḥa b́nh cho Đông Dương, các chính phủ Quốc gia được thành lập và tham dự ḥa  đàm Genève, nhưng...
Người Mỹ với vai tṛ lănh đạo khối thế giới Tự Do nóng ḷng và muốn can thiệp vào vũng lầy Đông Dương, đang t́m kiếm một khuôn mặt ít chịu ảnh hưởng của người Pháp để ủng hộ , Do những quen biết, ông Ngô Đ́nh Diệm có lẽ đă được thăm ḍ ư kiến về vai tṛ lănh đạo, theo tôi chính đó là hoàn cảnh bài thơ NỖI L̉NG được ra đời .

        Đọc bài thơ NỖI L̉NG người ta thấy được tinh thần dấn thân của một con người đang muốn xông pha vào thế cuộc ,
Chỉ 3 chữ “quẩy sang sông “ đă thể hiện được thái độ hăm hở xốc vác dám dấn bước sang một hoàn cảnh khác của tác giả...
        Câu thơ thứ 2 ” Hỏi bến: thuyền không, lái cũng không ,
        Mặc dù hăm hở muốn sang sông, tác giả vấp phải hoàn cảnh thực tế phũ phàng :
Muốn sang sông th́ phải có thuyền, nhưng thuyền không có mà lái cũng không nốt!! Nh́n vào hoàn cảnh nước nhà lúc đó con thuyền quốc gia đang bị sóng gió cộng sản vùi dập, mà người đủ tài lèo lái con thuyền cũng không có, lấy ǵ để sang sông.
        Riêng trong trường hợp tác giả lúc đó, dù nóng ḷng hăm hở
muốn sang sông gánh vác, nhưng thuyền là tổ chức, mà người lănh đạo cũng chưa có th́ làm sao có thể sang sông cho được bây giờ ?!...
Nếu cứ chần chừ chờ cơ hội thuận tiện th́ bao giờ cơ hội mới đến, v́ thế phải nhập cuộc, phải sang sông .
        Đọc cả bài thơ tôi thấy toát lên cái hào sảng của một kẻ sĩ, dù đang ẩn nhẫn , nhưng
quyết chí phải xông pha vào con đường gió bụi phong trần cái hăm hở của một con người nhập thế, dám chấp nhận thử thách khó khăn...

        Có lẽ v́ mang tinh thần NHẬP CUỘC đó mà chí sĩ NGÔ Đ̀NH DIỆM sau đó ít lâu đă nhận lời mời của Quốc trưởng Bảo Đại về nước đảm nhận vai tṛ thủ tướng khi người Pháp đang bị vây khốn Điện Biên Phũ, 

 

TRẦN VIỆT YÊN 

 

         Đến tháng 10 năm 2006, bài viết trích trên của ông Trần Việt Yên đă được đăng lại trên nhiều diễn đàn (cùng với các lỗi chính tả y nguyên như cũ).  

   

II

 

         Đọc lời bàn/b́nh của ông Trần Việt Yên, tôi cũng rùng ḿnh.

         Ông Trần Việt Yên không biết ǵ về lịch sử cả (ít nhất là những ǵ liên quan đến bài thơ và ông Ngô Đ́nh Diệm).

        

         A)  Về hoàn-cảnh ra đời của bài thơ:

         1/  “lúc đó cụ Diệm chưa về nước chấp chánh, cụ c̣n đang lưu ngụ... tại tiểu Bang Misouri (?) Hoa Kỳ.  Tất nhiên là chưa về nước chấp chánh; viết thế là thừa.  Vả lại, ở Mỹ cả mấy chục năm mà không viết đúng cái tên của Bang Missouri (tối thiểu cũng có trong sổ điện-thoại)!  Hơn nữa, sự thật là ông Diệm ở Bang New Jersey (mặc dù ông Trần Việt Yên có ghi dấu hỏi nghi-vấn liền sau tên Bang Missouri, nhưng một khi Ông Yên đă chú ư đến thời-điểm ra đời của bài thơ (năm 1953), nhất là hoàn-cảnh lúc đó của tác-giả (Ngô Đ́nh Diệm), mà Ông Yên vẫn cứ mù-mờ nhập-nhằng sự-kiện này với thời-điểm kia chứ không chịu t́m hiểu xem Ông Diệm lúc đó cư-ngụ/sinh-sống ở đâu, th́ làm sao mà b́nh thơ, về Nỗi Ḷng của ông Diệm được?

         2/  Thời điểm đó [1953]... Hội nghi Genève được h́nh thành”:  Bàn chuyện lịch-sử mà lại viết sai lịch-sử.  Hội-Nghị Genève chỉ được khởi đầu từ ngày 26 tháng 4 năm 1954 (đến ngày 8 tháng 5 năm 1954 mới bàn về Đông Dương, trong đó có Việt-Nam):  “Cụ Diệm làm [bài thơ này] từ năm 1953”, một năm về trước, th́ đâu đă có Hội-Nghị Genève 1954?

         3/  “các chính phủ Quốc gia được thành lập và tham dự ḥa  đàm Genève”:  Làm ǵ có nhiều [hơn một] chính phủ Quốc Gia, mà gọi là “các”?  Chính-Phủ Quốc-Gia Việt-Nam của Quốc-Trưởng Bảo Đại đă được thành-lập từ năm 1949 và được quốc-tế nh́n-nhận từ năm 1950.  Cầm đầu Phái-Đoàn Quốc-Gia Việt-Nam tham-dự Hội-Nghị Genève là Ngoại-Trưởng Nguyễn Quốc Định.  Ông Định từ-chức để khỏi phải kí Hiệp-Định Genève chia hai Việt-Nam.   

 

         B)  Về t́nh-h́nh sinh-hoạt của Ông Ngô Đ́nh Diệm:

        mà chí sĩ NGÔ Đ̀NH DIỆM đă nhận lời mời của Quốc trưởng Bảo Đại về nước đảm nhận vai tṛ thủ tướng khi người Pháp đang bị vây khốn Điện Biên Phũ”:

         Sự thật là Điện Biện Phủ (trận đánh mở màn từ ngày 13-3-1954) đă thất-thủ vào ngày 7-5-1954 rồi, th́, gần một tháng rưỡi sau, Ông Ngô Đ́nh Diệm mới được Quốc Trưởng Bảo Đại cử làm thủ tướng vào ngày 16-6-1954.  Lúc đó, Pháp đă đầu hàng rồi, đâu c̣n đang bị vây khốn Điện Biên Phủ nữa?   

 

 C)  Về nội-dung bài thơ Nỗi Ḷng:

         1/  Ông Trần Việt Yên đă bàn rơ thêm:  Mặc dù hăm hở muốn sang sông, tác giả (Ngô Đ́nh Diệm) vấp phải hoàn cảnh thực tế phũ phàng : Muốn sang sông th́ phải có thuyền, nhưng thuyền không có mà lái cũng không nốt!! Nh́n vào hoàn cảnh nước nhà lúc đó con thuyền quốc gia đang bị sóng gió cộng sản vùi dập, mà người đủ tài lèo lái con thuyền cũng không có, lấy ǵ để sang sông.”   

         Chừng e chưa rơ, Ông Trần Việt Yên lặp lại lần nữa: “Riêng trong trường hợp tác giả (Ngô Đ́nh Diệm) lúc đó, dù nóng ḷng hăm hở muốn sang sông gánh vác, nhưng thuyền là tổ chức, mà người lănh đạo cũng chưa có (Vá trời, lấp biển, người đâu tá?) th́ làm sao có thể sang sông cho được bây giờ ?!”

 Rơ ràng, theo Ông Trần Việt Yên, th́ Ông Ngô Đ́nh Diệm muốn “sang sông” (đem tài ra giúp nước), nhưng không có thuyền (không có tổ chức), không có người lái (không có lănh đạo), cho nên không thể “sang sông”, chỉ biết “cắm sào đợi khách” mà thôi.  Như thế tức là ông Ngô Đ́nh Diệm không có tổ chức (thuyền) của ḿnh, mà chỉ trông chờ tổ chức của người khác, và chấp nhận để cho người khác lănh đạo (lái) ḿnh.  Nói một cách khác, ông Ngô Đ́nh Diệm sẵn-sàng đem tài ra phục-vụ trong tổ-chức của người khác, dưới quyền lănh đạo của người khác, mà chưa toại nguyện, nên phải bất động, hay bất-lực, “cắm sào” (không làm ǵ hơn) để chờ thời thôi.  Câu thơ “Vá trời lấp biển người đâu tá?” chỉ rơ là ông Ngô Đ́nh Điệm không/chưa thấy, nên mong chờ, người lănh đạo ấy là người khác (chứ có ai lại đi mong chờ chính ḿnh?).  Câu thơ thứ hai đă khẳng định là “thuyền không (không có tổ chức), lái cũng không (không có lănh tụ)” rồi, cho nên câu cuối (Cắm sào đợi khách, thuở nào trong?) không có nghĩa là con thuyền hay người lái đ̣ “cắm sào đợi khách” (v́ từ câu 2 đă nói rơ là không có thuyền, không có người lái, tức không có tổ chức, không có lănh đạo rồi), mà là nói về nỗi ḷng của tác giả (lần lữa nắng mưa) “cắm sào đợi khách” tức là bất động, và thụ động trông chờ một con thuyền tức một tổ chức, và một người lái tức một người lănh đạo, hầu ông bước lên con “thuyền” ấy, tùy vào người “lái” đ̣ ấy, để mà “sang sông”.  Thuở nào trong?” là lời tự hỏi của tác giả, không biết bao giờ mới có tổ-chức và người lănh đạo tài ba ấy, để sông hết đục và nước nên trong (Đó là hiểu theo lời b́nh của Ông Trần Việt Yên – xin mời đọc lại chứ không phải là của tôi).

 2/  Tôi liền lục t́m tài-liệu lịch-sử th́ thấy quả là từ năm 1950 ông Ngô Đ́nh Diệm đă qua Nhật Bản t́m gặp Kỳ-Ngoại-Hầu Cường Để (ḍng dơi Hoàng-Tử Cảnh; từng được nhóm Phan Bội Châu và một nhóm giáo-dân Ky-Tô từ Quảng B́nh tới Nghệ An tôn làm Minh Chủ lo việc chống Pháp; bị Pháp tuyên án tử-h́nh khiếm-diện; cầm đầu Viêt-Nam Phục-Quốc Đồng-Minh-Hội, tổ-chức Việt-Nam Kiến-Quốc-Quân; hoạt-động khắp Hồng-Kông, Nhật, Trung-Hoa, Thái-Lan, Singapore, Ư, Đức, Anh; được Bảo Đại cử làm Trưởng Cơ-Mật-Viện; cư-ngụ và có thế-lực ở Nhật) để bàn với Ông Cường Để về việc thành-lập một chính-phủ chống Cộng; rồi qua Mỹ, tiếp xúc với Bộ Ngoại-Giao Hoa-Kỳ; rồi qua Pháp, rồi qua Roma, rồi liên lạc với Quốc Trưởng Bảo Đại (ngỏ ư sẵn sàng làm thủ tướng, với một số điều kiện); xong mới qua Mỹ lại.  Từ đó, ở Mỹ nhiều năm (dưới sự bảo trợ của Hồng-Y Francis Joseph Spellman, làm quen với nhiều Dân-Biểu và Thượng-Nghị-Sĩ như Mike Mansfield, John F. Kennedy...), Ông Ngô Đ́nh Diệm vận động ráo riết (kể cả đề nghị giải pháp suy tôn Hoàng-Thái-Tử Bảo Long vào năm 1951, lưu giữ quân đội Pháp lại tại Việt Nam vào năm 1953).  Hiển-nhiên Ông Diệm không thể đề-nghị Cường Để cũng như Bảo Long phục-vụ dưới quyền của ḿnh, mà chỉ ngược lại mà thôi [phục-vụ dưới quyền người khác].  Tháng 5 năm 1953 ông qua Âu Châu (và đến đầu năm 1954 vẫn chưa được ai bàn chuyện chính ông chấp chánh).  Đó là hoàn-cảnh và tâm-trạng thực-sự của Ông Ngô Đ́nh Diệm vào năm 1953, năm làm bài thơ nói trên.  Thế th́ ông Trần Việt Yên quả đă hiểu đúng nỗi ḷng và nội-dung bài thơ (cho là) của Ông Ngô Đ́nh Diệm vậy.

 3/  Do đó, nếu căn-cứ vào các loại “tài-liệu của những người thân-Diệm sau này, tán-tụng Ông Diệm lên tận mây xanh, th́ Ông Trần Việt Yên, dựa vào Ông Lệ Khanh, đă phạm tội vu-khống Ông Ngô Đ́nh Diệm là tác-giả bài thơ ấy (v́ bài thơ ấy phản lại huyền-thoại do một số người dựng lên về quá-tŕnh sự-nghiệp của Ông Diệm: tự ḿnh làm nên, không nhờ vào ai, nhất là không chịu ở dưới quyền ai), tức là Ông Trần Việt Yên đă hạ thấp giá trị tinh thần của chí sĩ họ Ngô vậy.

 4/  Hoặc-giả (nếu quả thật bài ấy là thơ của Ông Ngô Đ́nh Diệm), th́ ư tác-giả là ông đă có tổ-chức nằm sẵn trong nước, chỉ cần, và rất cần, được (siêu quyền-lực) hợp-thức-hóa thành một con thuyền, để ông được chính-thức-hóa thành kẻ lái đ̣, tức người lănh-đạo, th́ bài thơ “khẩu-khí nói lên hoài-vọng của ông như trên cũng đă đồng-thời đặt ra và xác-nhận một thực tế là yếu-tố ngoại-bang trong chiều dài vận-động chính-trị của Ông Ngô Đ́nh Diệm (cũng như các chính-khách Việt-Nam xưa và nay):  một bên là Liên-Xô; một bên là Đông-Du, Đông-Kinh Nghĩa-Thục, rồi Hoa-Kỳ.  Và Hoa-Kỳ sau này vẫn là cái bến tốt nhất cho các con thuyền vào đậu hay ra đi (mà Diệm th́ vào đậu nhờ, song sau khi tách bến đă tự biến thành con thuyền không bến, không cả t́m về bến cũ với cây đa xưa)!

 5/  Tôi không tin rằng ông Ngô Đ́nh Diệm có làm thơ có làm quen với Đường-Thi mới thích làm thơ Đường-Luật (); vả lại người sính làm thơ th́ đă làm nhiều, chứ đâu chỉ có một bài! Nhưng tôi lại tin rằng, nếu ông Diệm mà có làm thơ, th́ hẳn là ông đă hủy (không c̣n lưu lại) bài thơ... bất-lợi cho ông như trên.  

 

III

 

         Trở lại thời-gian 1954-63, dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Ḥa: hầu hết các cơ-quan truyền-thông (đều do chế-độ kiểm-soát), các công-chức và quân-nhân văn+nghệ-sĩ, cùng với các phần-tử mưu-cầu danh-lợi, đều đă nỗ-lực tối-đa để sản-xuất những tác-phẩm (chưa kể các báo-cáo, diễn-văn, kiến-nghị, thỉnh-nguyện-thư, lời nói miệng...) đề-cao Tổng-Thống họ Ngô.  Nhưng đằng sau những cố gắng ấy đă có thấp-thoáng cái mặc-cảm tự-ti rằng Ngô Tổng-Thống trong này có thể thua kém Hồ Chủ-Tịch ngoài kia về một số mặt nào đó, cho nên người ta đă tô vẽ quá đà.  Một trong các thí-dụ là: ngoài Bắc th́ Tố Hữu cường-điệu Tiếng đầu ḷng con gọi Xít Ta Lin, trong Nam th́ Đỗ Tấn (Đỗ Tấn Xuân) xuất-bản hẳn cả một tập thơ nhan đề Mùa Hoa Sim Nở mà then chốt trong đó là câu:  Tiếng đầu ḷng con gọi: Cụ Ngô!

         Trong bối-cảnh đó, nếu có, dù chỉ một câu, thơ của Cụ Ngô, th́ hẳn mọi người đă tranh giành nhau giảng-b́nh, ca-tụng, chêm vào các sách văn-học-sử, đem dạy khắp mọi lớp+trường, phổ-biến khắp các công+quân+tư-sở, phổ nhạc, dịch qua các tiếng nước ngoài, v.v..., nhất là dùng làm bằng-chứng cụ-thể rằng chính Cụ Ngô cũng có làm thơ, chứ đâu thua kém Cụ Hồ ngoài kia!

         C̣n một điểm nữa, là nếu Ông Ngô Đ́nh Diệm, v́ quá nôn nóng ra làm quan sớm trong triều bù-nh́n dưới quyền thực-dân (nên đă khai gian trội tuổi để được nhận vào học trường Hậu-Bổ), rồi lại tiếp-tục mải-mê theo-đuổi chí-huớng của ḿnh, nên chỉ làm được có một bài thơ mà thôi, th́ nó là phần di-sản tinh-thần quư-hiếm của ông; lẽ nào những người thân-tín hàng đầu, như Ông+Bà Trần Trung Dung, Hồng-Y Nguyễn Văn Thuận, các linh-mục ở Phủ Cam, các người quản-thủ văn-khố của gia-đ́nh họ Ngô, của cố Tổng-Giám-Mục Ngô Đ́nh Thục, và của Bà Ngô Đ́nh Nhu, v.v... mà cũng không biết ǵ đến bài thơ ấy cả; và những nhân-vật hoài-Ngô sưu-tầm viết-lách đầy dẫy trên trường sách+báo truyền-thanh truyền-h́nh và Internet, nhất là từ năm 1963, mà cũng không ai nói đến mà phải đợi đến dịp giỗ lần thứ 40 của ông (40 năm sau khi ông mất), vào năm 2003, mới có một ông Lệ Khanh nào đó, nhân trong câu chuyện hàn-huyên, không trưng xuất-xứ, mà tung bài thơ ấy ra?

         Thế nhưng Ông Trần Việt Yên lại c̣n rao thêm là có cả một mục-sư tên Hồ Xuân Phong (?) cho hay là Ông Ngô Đ́nh Diệm c̣n có một bài thơ thứ hai nữa, nhan đề Tóc Bạc, sáng-tác vào thập-niên 1960 (thời-gian ông Diệm đă đạt-nguyện rồi), mà mục-sư ấy không nhớ, chỉ nhớ một bài họa lại của một nữ sĩ vô danh vào năm 1963 (là năm cuối-cùng của Tổng-Thống Diệm).

         Bài thơ chủ-yếu và hiếm-hoi (cho là) của một danh-nhân mà không cần nhớ, lại đi nhớ bài họa lại của một phần-tử vô-danh!

 

IV

 

         Cũng sắp đến ngày húy-kỵ, vào năm 2006, Giáo-Sư Lưu Trung Khảo đă lên tiếng về bài thơ này như sau:

To:             @yahoogroups.com

From:        "khao luu" <luutrungkhao@yahoo.com

Date:         Sun, 22 Oct 2006 21:23:43 -0700 (PDT)  

Subject:     Re: 50 nam sau doc bai tho Noi long" cua mot chi si - Bai viet nam 2003

         Thưa quư vị,

         Tác giả bài thơ Nỗi Ḷng là cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác, Giáo sư trường Đại Học Văn Khoa Saigon trước 1975.

         Hồi thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, không hiểu v́ đâu có tin đồn rằng cụ Ngô là tác giả bài thơ đă in trong Văn Đàn Bảo Giám với tên tác giả là Nguyễn Sĩ Giác.  Cụ Lăng Nhân* cũng đă viết rơ ràng về lai lịch bài thơ này trong cuốn Giai Thoại Làng Nho hay Chơi Chữ (tôi không nhớ rơ cuốn nào).

         Xin kính tŕnh để quư vị thẩm định.

         LƯU TRUNG KHẢO

         *Lăng Nhân là biệt hiệu của cụ Phùng Tất Đắc, nhà văn, chủ trương nhà xuất bản Nam Chi tại Saigon trước năm 1975, tác giả Chơi Chữ (1961), Chuyện Vô Lư (1962), Hán Văn Tinh Túy (1965), Giai Thoại Làng Nho (1966), Chuyện Cà Kê (1968)...

 

V

 

          Câu chuyện tưởng đă ch́m xuồng, nhưng nay có một vi-dân kư tên Lốc liếc (cũng có vi-danh Thiên Lư) đă đăng trên Blog của ḿnh bài thơ vô đề của Ông Nguyễn Sĩ Giác, với ảnh chụp b́a tác-phẩm Chơi Chữ” của Ông Lăng Nhân (Phùng Tất Đắc), với 2 trang sách có bài vô đề nói trên, mà kẻ phổ-biến sau này (Lệ Khanh, Trần Việt Yên) đă chép sai mất mấy chữ, và gán cho nó cái tên Nỗi Ḷng”, rồi bảo thơ của Ông Ngô Đ́nh Diệm sáng-tác vào năm 1953”.

          Nguồn:  http://locliec.blogspot.com/2015/01/lai-chuyen-tho-co-ca-tho-cu-diem.html

          Cuốn sách Chơi Chữ”, Giáo-Sư Lưu Trung Khảo đă đọc th́ được xuất-bản vào năm 1961, và theo tác-giả Lăng Nhân (Phùng Tất Đắc) th́ bài thơ này đă được Cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác sáng-tác vào khoảng năm 1920.  Ấn-bản mà vi-dân Lốc liếc (liếc xem các blogs) có được th́ được Tủ Sách Nam Chi, cơ sở xuất bản phạm quang khai, ở Saigon, ấn-hành lần thứ 3 vào năm 1970.  Sáu câu đầu tiên của bài vô đề nằm ở cuối trang 173; hai câu cuối cùng ở trang 174.  (Xem h́nh dưới đây.)

 

     

 

         Nhưng vi-dân Lốc liếc đă có ư-kiến trên Internet như sau:

         <<Điều đáng lưu ư là ở đây có vài chữ khác (in đậm) so với thơ (lời đồn) của Cụ Ngô ở trên


                Gươm đàn nửa gánh muốn (quẩy?) sang sông

                Hỏi bến: thuyền không, lái cũng không!

                Xe muối nặng nề thương (thân?) vó Kư

                Đường mây rộng răi tiếc chim Hồng

                Vá trời lấp biển người đâu vắng (tá?)?

                Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!

                Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế

                Cắm sào đợi nước (khách???), thuở nào trong?


        
Những chữ khác nhau này c̣n cho thấy bản do cụ Lăng Nhân chép trong "Chơi chữ" là Đường luật "thứ thiệt" và thâm thúy hơn so với bản (đồn là) của Cụ Ngô, như dùng chữ "thương" ở câu 3 th́ mới đối chỉnh với chữ "tiếc" ở câu 4, và dùng chữ "vắng" ở câu 5 để đối với chữ "đông" ở câu 6. Chữ "nước" ở câu cuối hay và đa nghĩa (nước sông, non nước, nước cờ) hơn chữ "khách" quá tệ hại của thơ (đồn là) của Cụ Ngô. Cụ Ngô "đợi khách" à? "Khách" nào? Vô duyên thấy mẹ, tự nhiên làm cho người ta liên tưởng đến thành ngữ "thằng ngô con đĩ"!

         Đến đây th́ tôi lại phải thốt lên, lạ thật, lạ thật hehehe, chả biết đám đệ tử Ngô “Chí sĩ” nhà ta “ăn cắp” thơ cụ Nghè Giác gán cho Cụ Diệm để làm ǵ, hay là thói thường “thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào?>>

         Nguồn:  http://locliec.blogspot.com/2015/01/lai-chuyen-tho-co-ca-tho-cu-diem.html  

 

NGƯỜI THƠ   

        

         CHÚ-THÍCH:	 

         Trong cuốn hồi-kư Sống C̣n Với Dân Tộc của cố Hà Thúc Kư, ở trang 166-67 có đoạn:

         <<Trong tập hồi kư có tên Khúc Tiêu Đồng (trang 126), tác giả Hà Ngại có viết:  “Nguyên ông Ngô Đ́nh Diệm tốt nghiệp trường Pháp (Diplôme complémentaire), không có khoa mục – tức là không có khoa bảng về Hán văn...  Cụ (Nguyễn Hữu) Bài (thông gia với cụ Ngô Đ́nh Khả) lúc bấy giờ là Thượng Thư Bộ Lại, quyền uy rất lớn, cụ Bài muốn cho ông Diệm vào trường Hậu Bổ, mới tâu xin vua ra một điều lệ mới:  Là người nào có văn bằng tốt nghiệp Trung Học Pháp*, được xem ngang Tú Tài Hán Học và đương nhiên ấm sinh Tú Tài được thi vào trường Hậu Bổ.  Ông Diệm là con quan, có ấm sinh, nên được thi vào trường Hậu Bổ...  Nhưng điều lệ ấy chỉ có ông Diệmmột vài người có thế lực được hưởng.  Sau một thời gian ngắn, điều lệ ấy bị băi bỏ.>>

Nguồn:  Hà Thúc Kư, Sống C̣n với Dân Tộc, California: Phương Nghi, 2009 

 

         *Ghi-Chú:

         Dưới thời Pháp-thuộc nước ta có 2 chương-tŕnh giáo-dục:  Chương-Tŕnh Pháp do giáo-viên Pháp dạy tại trường Pháp, sau 4 năm thi lấy bằng Diplôme (DEPSI= diplôme d'études primaires supérieures indochinoises) là bằng Trung-Học Đệ-Nhất Cấp; và chương-tŕnh bản-xứ do giáo-viên Việt dạy tại trường Việt, sau 4 năm thi lấy bằng Thành ChungCả hai đều tương-đương lớp 9.  (Học thêm 3 năm nữa mới thi lấy bằng Baccalauréat hoặc Tú-Tài tức Trung-Học Đệ-Nhị Cấp tương-đương lớp 12.)  Nhưng Chương-Tŕnh Việt có dạy Hán-Tự, mà Chương-Tŕnh Pháp th́ không...  

 Trở lên

NGƯỜI THƠ