Theo
ông NGUYỄN VĂN LỤC
(Nhà
báo, nhà văn):
Nh́n
lại cuộc di cư 1954-1955 (VI)
1/ Tồng-số giáo dân di-cư
vào Nam:
Cách
tính của bà Đặng Phương Nghi có thể là con
số gần đúng (chỉ là 238.755
giáo dân mà thôi)(tham-chiếu1)
2/ Các phương-tiện và
nguồn cung-cấp:
2a-
Ngày 04/08/1954 là ngày
quyết định thiết lập
một cầu hàng không chở người di cư từ
miền Bắc vào miền Nam...
Mỗi
ngày có khoảng 50-70 chuyến bay từ
miền Bắc vào miền Nam, mà tổng số là đă có
hơn 200.000 được không vận từ Bắc vào
Nam.
Ngoài
ra, c̣n có các đoàn tàu thủy.
2b-
Tiền và hiện-vật do chính-phủ Hoa-Kỳ, các
tổ-chức tư-nhân Hoa-Kỳ, cùng với chính-phủ
Pháp và các tổ-chức tư-nhân Pháp, Đức, Phi
Luật Tân, cung-cấp, cùng với các phương-tiện
của Việt-Nam (có sẵn từ thời Quốc-Trưởng
Bảo-Đại)(tham-chiếu2)
(trích
từ tác-phẩm “Vấn đề
số người Thiên Chúa giáo di cư từ Bắc vào
Nam sau Hiệp định Geneva” của ông Nguyễn
Văn Lục phổ-biến trên các diễn-đàn)
Ư-Kiến:
(Chỉ mới một) tài-liệu này đă có giá-trị
bổ-túc cho các bài viết cố ư đơn-giản cho
rằng cố Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm tự
một ḿnh ḿnh cứu giúp cả một triệu người
Bắc Việt di-cư và định-cư tại Miền
Nam.
Đương-nhiên
ông Diệm là người lănh-đạo đất nước
trong giai-đoạn đó ‒ việc xấu th́ ông
bị chê, cho nên việc tốt th́ ông được khen.
Nhưng khen mà cố ư quên thiện-chí, công-sức và
tiền-của của người khác ủng-hộ cho (mới
có phương-tiện hoàn-thành kế-hoạch) th́ là
thiếu-sót, thiên-vị, và bạc nghĩa vong ân.
–
Trong một bài viết của bà Đặng
Phương Nghi (Bà Đặng Phương Nghi
tốt nghiệp trường École des Chartes, cựu Giám
đốc nha Văn Khố và thư viện VNCH trước
1975). Dựa vào báo cáo của ủy ban kiểm soát
quốc tế cho thấy có 888.124 người
di cư (số của Nam Việt) và 892.876
(số của Bắc Việt) so với số 4.269
người bỏ miền Nam ra miền Bắc. Nhưng
những con số trên không kể đến binh lính,
hoặc những người đă trốn vào Nam sau ngày
20/7/1955. Bà Đặng Phương Nghi cho rằng trong
Nam vào đầu năm 1954, có 700.000 người Thiên Chúa
giáo, mà toàn quốc có 1.600.000.
Trừ 700.000 của miền Nam th́ miền
Bắc có 900.000 người có đạo. Nếu
700.000 người di cư th́ ở miền Bắc chỉ
c̣n lại 200.000 giáo dân.Thế mà tài liệu chính
thức của giáo hội miền
Bắc vào năm 1964, lập theo từng địa
phận sau này cho biết có 833.468 giáo dân. Phần giáo
hội miền Nam sau này tăng thêm 700.000 giáo dân th́
tổng cộng sẽ là 1.400.000 người. Vậy mà
theo ước lượng của giáo hội vào năm
1960, trong Nam chỉ có từ 1 triệu mốt đến 1
triệu hai giáo dân theo Seigliano ghi lại. Như
vậy, con số 700.000 ngay cả 600.000 giáo dân di cư vào
miền Nam là con số cần được xét lại. Và
theo bà Đặng Phương Nghi, con
số 700.000 là con số thổi phồng, quá khích.
Theo cách tính của bà, con số giáo dân
di cư không quá 500.000 như Trần Tam Tỉnh xác
nhận và có thể chỉ độ
200.000 người như các cách tính trước đây,
tức chỉ tương đương với 25% đến
50% tổng số dân ci cư thay v́ 65% như tối
thiểu được ghi chung trong các sách. Theo cách tính
của bà, con số thích hợp gần đúng nhất chỉ
là 238.755
giáo dân mà thôi (Trích
Về số người Công giáo di cư
từ Bắc vào Nam sau Hiệp định Geneva,
Đặng Phương Nghi)
– Mới đây nhất, tác giả Ronald
B. Frankum Jr. trong Operation Passage to
Freedom khẳng định như sau: Those Vienamese
who made the decision to leave their homes in the North for so many reasons.
Approximately one-third of the people who fled were Catholics and left as a
result of Viet Minh treatment of those who followed the Church. (Trích sách
trang 14) Đối với những người Việt Nam
đă quyết định dời bỏ nhà cửa của
họ ở miền Bắc th́ có nhiều lư do khác nhau.
Gần như một phần ba những người
trốn khỏi miền Bắc là người Thiên Chúa giáo
và họ đă ra đi v́ lư do cách đối xử
của Việt Minh đối với giáo hội của
họ. Một phần ba của con số
800.000 ngàn người là trên dưới gần
300.000 người theo đạo.
‒
Và tôi nghĩ rằng, cách tính chính xác nhất là căn
cứ vào danh sách các người di cư có đạo
ở trong các trại di cư là tối ưu. V́ thế nên
căn cứ vào số giáo dân nằm rải rác trong các
trại di cư lớn như Hố Nai,
Gia Kiệm và Cái Sắn. Chẳng hạn ở các
trại định cư Cái Sắn, một trong những
chương tŕnh định cư lớn nhất, trù
liệu là 120.000 dân, trong đó có 20.000 dân địa phương
cho thấy số giáo dân thực sự ở đây là
50.000 người và dự tính có thể thêm vài chục
ngàn. Nhưng thực sự các lô đất được
chia làm nhà ở là 8086 lô. Giả dụ mỗi gia đ́nh
trung b́nh là 6 người th́ mới đạt con số
50.000 dân di cư. Hố Nai và vùng phụ cận trù
liệu 5, 6 chục ngàn người. Nhưng con số lúc
đầu chỉ là 41 ngàn. Và theo bảng dự tính
số người định cư của Mỹ trù
liệu th́ Biên Ḥa là 100.000 người, Xuân Lộc là
200.000 người, trong đó có nhiều người theo
đạo ông bà và đạo Phật. Người ta
sẽ thấy số
giáo dân không thể quá 300.000 người được.
Nhưng nay nếu chúng ta căn cứ vào những con
số của Hải quân Mỹ đưa
ra có phần chính xác hơn cả th́ đă hẳn
con số người Thiên Chúa giáo di cư lại một
lần nữa cần phải được xét lại.
Theo Ronald B. FranKum, Jr. trong Operation
Passage to Freedom th́: người Pháp
đă chở bằng máy bay và tầu chiến tất
cả là 448.619 người di cư
vào miền Nam. Tầu chiến Mỹ
nhận chuyên chở phần c̣n lại là: 310.848,
với 41.378 nguời đi tự túc. Và cộng
chung hai con số của người Pháp và Mỹ, ta có
800.786 người di cư. Nhưng nếu trừ ra
số quân nhân Pháp Việt và thường dân Pháp
cộng chung là 200.000 người. Lấy 800.786 người
di cư trừ số thường dân Pháp và quân nhân, chúng
ta vỏn vẹn c̣n 600.000 người di
cư. Vậy mà phần lớn các tài liệu
dẫn chứng ở trên đều cho thấy số giáo
dân di cư là khoảng 700.000 người. Nếu chấp
nhận con số người di cư của Hải quân
Hoa Kỳ đưa ra th́ con số
giáo dân di cư không thể quá con số 300.000 người
được. (Trở
Lui)
Ngày
09/08/1954, chính
quyền miền Nam do thủ tướng
Ngô Đ́nh Diệm cầm đầu
đă cho thiết lập một
phủ Tổng Ủy di cư, phụ trách giúp đồng
bào tỵ nạn theo NĐ 111TTP-VP...
Mỗi ngày có khoảng 50-70 chuyến bay,
đem theo khoảng
1500 dân di cư mỗi ngày...
Đấy
là cầu không vận lớn nhất chưa
từng có...
Ngày
17/08/1954, có
buổi họp giữa ông (Nguyễn
Văn)
Thoại (Tổng
Ủy Trưởng Di Cư)
và các viên chức Pháp và Mỹ. Về phía Pháp có tướng
Ely, Jean Gambiez (cố vấn cho ông Nguyễn Văn Thoại).
Về phía Mỹ có tướng O’Daniel và đô đốc
Sabin, thông qua
cơ quan MAAG và
STEM. Đại
tướng O’Daniel đă chỉ định đại tá
Rolland Hamelin, đại diện ông để làm việc
với Hải quân Mỹ.
Kết
quả là phía
người Pháp cung cấp 30 xe vận tải để
chở người di cư từ bến tầu đến
các trại tạm trú...
Phía chính quyền
Việt Nam cung cấp 100 xe vận tải...
Có
10 trung tâm tiếp cư chính là: Phú
Thọ, Xuân Trường (Thủ Đức), Nhị Thiên
Đường, B́nh Đông 1, B́nh Đông 2, B́nh Đông
3, Bảo Hưng Thái, Rạch Rừa, B́nh Trị Đông và
B́nh Thới. Ngoài ra c̣n có những trung tâm tiếp cư
lẻ tẻ như Bệnh viện B́nh Dân, Nhà Kiếng, Tân
Sơn Nhất, Dạ Lữ Viện, Rạch Dừa và các
trường học ở Sài G̣n, Chợ Lớn, Gia Định,
Thủ Đầu Một hay ở G̣ Vấp như các trường
Tôn Thọ Tường, Nguyễn Tấn Nghiệm, Pétrus Kư,
Cây- Gỗ lớn, Cây-Gỗ nhỏ, Đỗ Hữu Phương,
Phú Thọ, Đakao, Khánh Hội và các trạm cứu
hỏa đường Trần Hưng Đạo, tỉnh
Gia Định và trại tiếp cư Ḥa Khánh ở
Chợ Lớn v.v… Các thành phần như sinh viên, học
sinh, nhất là phái nữ th́ được ưu tiên
tạm trú tại trường Gia Long, trường Petrus Kư
và 2000 người tạm trú tại các trường
học ở Gia Định v́ lúc đó các trường
đang nghỉ hè.
Ở
trường Gia Long... đă có sự
cứu trợ của cơ quan The Intertionnal Rescue Committee
đến giúp quư bà cho những nhu cầu thiết
yếu (in the form of living essentials) như tặng quạt
máy, đèn bàn học, thuốc diệt sâu bọ, bàn
ủi, quần áo và xà bông, v.v… Chưa kể
mở các lớp huấn nghệ xă
hội như về sản khoa, chăm sóc trẻ con
v.v. (trích tài liệu International Assistance to Refugees, The Junior
Chambre International. J.C.I or JAYCEE)...
Trại
di cư Phú Thọ c̣n được gọi là Phú Thọ
“lều”, v́ ở trong các lều.
Các lều này được chuyên
chở từ Nhật về trong các kho dự trữ
của chính phủ Mỹ ngày 31/07/1954.
Đợt đầu tiên là 2000 căn lều bạt đă
tới Sài G̣n và trù liệu chỗ trú ẩn cho 40.000 dân
di cư...
Chi
phí dự trù cho việc tiếp cư này là 1.500.000.000,
một tỷ rưỡi tiền Việt Nam
trong đó có các chi phí như tiền
ăn uống trong 3 tháng cho mỗi người di cư,
12 đồng/một người, 367.000.000.
Chi phí cho việc xây cất một trăm
ngàn căn nhà, với giá 6000 đồng/căn, 600.000.000.
Có lẽ, đây là chi phí tốn kém
nhất. Chi phí cho việc mua dụng cụ làm đồng
như dao, liềm, cuốc v.v...
với số tiền 377.800.000 đồng.
(Trích OPTF, trang 29)...
Cơ quan STEM ước định, để có thể cung
cấp đầy đủ cho người di cư cho
đến khi họ tự túc được th́
số tiền tài trợ phải bỏ ra là ở phía Nam
là: 1.205.000.000 tỉ đồng.
Chưa kể khoảng một tỉ
đồng cho các tỉnh miền Trung. (Trích tóm
lược trong OPTF, trang 149)
Ngày 02/02/1955, Hoa
Kỳ đă hoàn tất chương tŕnh viện trợ
để ổn định 500.000 người di cư...
Ngày
28/02/1955, Hoa Kỳ tháo khoán 18 triệu Mỹ Kim giao
trực tiếp cho Việt Nam mà không qua tay Pháp...
Bắt đầu từ
11/3/1955 th́ ngay
khi tầu cập bến được
cấp 800 đồng mỗi người,
cấp một lần một và sau
đó được đưa tới các trại định
cư. Khi
tới trại định cư được cấp
3.000 đồng để tự túc dựng lấy một
căn nhà, chia làm ba kỳ để
mua vật liệu cất nhà như
tre, nứa. Chưa kể
được cấp phát giường chiếu, chăn mùng,
cấp phát dụng cụ làm
ruộng, hạt giống, phân hóa học để
mưu sinh. (Tài liệu Phủ Tổng Ủy di cư,
trích lại trong B́nh Giả, quê Hai,
tác giả Đ́nh Quang).
Bên
cạnh đó, có nhiều cơ quan từ thiện như CARE
cung cấp 25 ngàn thùng quần áo, giầy dép
Ngày
1/7/1955,
ngân khoản mà Hoa Kỳ đă trợ cấp cho người
di cư là 1 tỉ 58 triệu. Trong
đó có 480
triệu để trợ cấp định cư, 300
triệu để trợ cấp cho người định
cư làm nhà.
Ngày
1/7/1955, đại sứ Mỹ Rheinarat trao cho Thủ tướng
Ngô Định Diệm ngân phiếu 11 triệu Mỹ Kim
của dân chúng Hoa Kỳ tặng cho người di cư. Không
quên là trước
đó tháng 12/1954, tướng Lawton Collins đă trao
một chi phiếu 28.571.428 triệu Mỹ Kim. (Trích
B́nh Giả, quê Hai,
Đ́nh Quang).
Cũng cần ghi
nhận là những số tiền lớn
như thế đă được trao cho Thủ tướng
Ngô Đ́nh Diệm,
sau
đó được phân phối cho các trại tị
nạn về phân phối lại...
Khi
tới trại tạm cư, mỗi người được
trợ cấp 12 đồng/ngày cho người lớn và
6 đồng/ ngày cho trẻ em. ..
Tính đến ngày 30/10/1955 có tất cả là 887.890 người
đă được di cư vào miền Nam. Trong
đó cần định cư 596.031 người. C̣n
lại 140.000 sống rải rác khắp nơi và 125.393 là
gia đ́nh các quân nhân. Để định cư con
số hơn nửa triệu người th́ chính quyền
đă cho thiết lập được 156
trại ở Nam Phần, 65 trại
ở Trung Phần và 34 trại
ở vùng Cao Nguyên...
Hơn
nửa triệu người
cần được tái định cư, phải lo cho
họ có nơi ăn chốn ở,
có công ăn việc làm tự túc,
có trường học cho trẻ em,
có trạm y tế cho người
ốm đau và nhất là nơi thờ
phượng tôn giáo. Ở chỗ nào có dân di cư
th́ ở đấy có chùa chiền, nhà thờ...
Đó
là một điểm son cho việc định
cư gần một triệu người tỵ nạn...
Cơ quan xă hội công giáo Hoa Kỳ,
The National Catholic Welfare Conference (NCWC)
với 400.000 cân (Anh) sữa bột và
sau đó c̣n gửi thêm một
số lượng khổng lồ là 1.000.000 pounds sữa
bột, 900.000 pounds dầu ăn, bơ và phó mát...
Bên cạnh cơ quan xă hội công giáo Hoa
Kỳ, c̣n có cơ quan The Catholic
Relief Service đă cứu trợ
1.100 tấn quần áo và thuốc men, 50 máy may và
trường học dạy may,
giúp xây cất 69 nhà thờ,
giúp xây dựng 81 Hợp tác xă,
giúp xây một nhà thương
ở Biên Ḥa với 250 giường bệnh,
giúp xây dựng các trại mồ côi
ở ở Thủ Đức, G̣ Vấp, Ban Mê Thuột,
giúp xây dựng nhà thương cho
người cùi ỏ Di Linh, giúp xây
dựng 4 nhà máy làm gạch ở Phước
Lư, Biên Ḥa, Tây Ninh và Đà Lạt...
Phải kể thêm các cơ quan thiện nguyện khác như
The Phiippine Jaycees, UNICEFF, Rotary club và Jaycee,
The American Women Association, Operation Brotherhood, Hội cứu
trợ công giáo Pháp và Đức do giám mục Rhodain và
Daniels đại diện v.v… (trích tài liệu
International Assistance To Refugees)
Rất nhiều bàn tay đă dơ ra
để giúp đỡ người di cư trong lúc đầu
đến lập nghiệp ở miền Nam.
Cơ quan FOA đă
gửi sang những máy làm gạch để
ngày đêm dân di cư sản
xuất lấy gạch xây trường học.
Nhưng
có một vài trại đinh cư như
các trại ở Củ Chi mà con số người di
cư lúc đầu lên đến 6, 7 ngàn người. Trại
này do người Pháp đỡ đầu,
được hưởng nhiều
quyền lợi từ hai phía, từ chính quyền đến
người Pháp giúp ủi đất, dựng nền nhà,
đào giếng, xây dựng trường học, nhà thương,
nhà thờ do tiền quyên được của nhật báo
Le Figaro ở bên Paris tài trợ.
C̣n
đối với người Mỹ
th́ như nhận xét sau đây trong Passing
the Torch: “Cái Sắn was hailed by the US as a symbol of South
Viet Nam‘s determination to shelter people who linked their future with that
of the free government”. (Trích Passing the Torch, trang 141) Cái
Sắn được chính quyền Mỹ chào đón như
biểu tượng về ḷng quyết tâm của miền
Nam Việt Nam để che chở những ai đặt tương
lai của họ vào tương lai của một chính
quyền tự do”.
Nhưng
để đất có thể trồng trọt được,
cơ quan USOM đă
dùng 110 máy ủi đất để
cào sới đất, sau đó dùng
máy cầy san đất.
Tính chung là 1.800.000 mét đất
đă được ủi và cào xới.
Chính quyền có cấp phát cho các
gia đ́nh trâu để cầy ruộng.
Trâu mua từ Thái Lan về. Đă có 2148
con trâu đă được cấp phát cho các
trại di cư ở Nam Phần và 40 con ở Trung Phần.
Riêng ở Cái Sắn, cứ 4, 5 gia đ́nh chung nhau một
con trâu để cầy ruộng...
Trên
toàn thể các trại di cư, chính phủ đă giúp
đào được 5405
cái giếng và phân
phối khoảng 400
tấn phân bón. Đồng
thời phân phối khoảng 60
ngàn cuốc xẻng. Chính
phủ cũng cho nông dân đi định cư vay
một số tiền là 118.217.200 triệu đồng.
Chính phủ
Hoa Kỳ c̣n cung cấp cho dân định cư,
lúc đầu là 50.000 người, dự trù thêm 50.000
nữa, một số tiền là 400 triệu đồng
cùng với tất cả các dụng cụ nông nghiệp mà
số tiền tính ra khoảng 1 triệu Mỹ kim.
v.v...
(Trở
Lui)