GIÁO-HOÀNG JOHN PAUL II

VÀ SỰ SỤP ĐỔ

CỦA CHẾ ĐỘ CỘNG-SẢN BA-LAN

(xem tài-liệu lịch-sử)

 

I/  TỔNG-QUÁT:  

 

        Từ sau khi chế độ cộng-sản Ba-Lan bị giải-thể, vào tháng 12 năm 1990, có nguồn dư-luận nhiều nơi cho rằng chính Giáo-Hoàng Gioan PhaoLồ II, vốn là một người Ba-Lan, đă có công lật đổ bộ máy cai-trị vô-thần ấy, để giải-phóng cho quê-hương và đồng-bào ḿnh.

        Trước đó, các đảng cộng-sản tại nhiều nước Xô-Viết trong Liên-Xô (USSR=United Soviet Socialist Republics= Liên-Bang Cộng-Ḥa Xă-Hội Chủ-Nghĩa Xô-Viết) đă bị giải-thể Hung-Gia-Lợi thoát ách cộng-sản kể từ tháng 10 năm 1989, Tiệp-Khắc vào tháng 12 cùng năm. 

        Chỉ chú-trọng vào Ba-Lan, không nh́n xa thấy rộng hơn, nguồn dư-luận nói trên cho rằng Giáo-Hoàng Gioan PhaoLồ II cũng là người đă chấm dứt luôn cả các chế-độ cộng-sản khác thuộc Khối Đông-Âu.

        Cái "công-lao" nói đó đă được các giới ủng-hộ Ngài khắp nơi ca-ngợi tối-đa, thậm-chí có một số người Việt-Nam chống-Cộng tin rằng nếu có một Giáo-Hoàng là người Việt-Nam th́ cộng-sản Việt-Nam chắc-chắn sẽ sớm tiêu-vong trong một ngày rất gần.  

 

II/  HOẠT-ĐỘNG CHỐNG CS BA-LAN CỦA GIÁO-HOÀNG GIOAN PHAOLỒ II (THEO GIỚI TRUYỀN-THÔNG NGƯỜI VIỆT HẢI-NGOẠI):

 

        1/  Theo nhà báo Tú Gàn:  

 

"Saigon Nhỏ ngày 8.4.2005

Một cách đấu tranh kỳ lạ của ĐGH John Paul II  

 

   Sau khi Đức Giáo Hoàng John Paul II qua đời, nhiều người ở khắp nơi trên thế giới ...  đều đă bày tỏ cảm t́nh yêu mến và ca ngợi về những ǵ ngài đă đem lại cho thế giới trong thế kỷ qua. Các cơ quan truyền thông đă dùng khá nhiều th́ giờ và gíấy mực để nói về Đức Giáo Hoàng, trong đó có bàn đến việc Đức Giáo Hoàng đă góp phần vào việc làm sụp đổ các chế độ cộng sản ở Đông Âu.  Sự thật như thế nào?

   Cho đến nay, các sử liệu liên quan đến vấn đề này vẫn chưa được công bố, nên chúng ta khó có thể bàn đến một cách chính xác được.  Chúng ta chỉ biết Đức Giáo Hoàng đă đến thăm hai nước cộng sản là Ba Lan và Cuba. Nhân khi thế giời đang tiển đưa ngài, chúng ta thử t́m hiểu xem Đức Giáo Hoàng đă làm ǵ ở hai nước này và ảnh hưởng của ngài ở đó ra sao. Tuy nhiên, trước khi đề cập đến hai biến cố đó, chúng tôi xin nói qua về cách nh́n của Đức Giáo Hoàng đối với chủ nghĩa cộng sản.  

 

MỘT CÁI NH̀N VỀ CỘNG SẢN  

 

   Đức Giáo Hoàng John Paul II có tên thật là Karol Josef Wojtyla, sinh ngày 18.5.1920 tại Wadowice, Ba Lan...

   Từ năm 1948 đến 1951, cha Karol Wojtyla phụ trách giáo xứ Niegowic...  Cậu Stanislaw Wyporeck, người thư kư đánh máy của linh mục, cũng được yêu cầu báo cáo cho họ (CS) những điều linh mục đă làm hàng ngày, nhưng cậu từ chối. Một hôm, cảnh sát đến bắt cậu và đưa đến một làng gần đó đánh đập và buộc cậu thú nhận đă tham gia một tổ chức bí mật chống lại chế độ. Sáng hôm sau, Stanislaw trở về đă run rẩy và sợ hải kể lại mọi chuyện cho Linh mục Wojtyla nghe. Ngài đă an ủi cậu: “Stanislaw, đừng lo, họ sẽ tự kết liểu bản thân họ thôi.” Sau đó, ngài đă nói với những người khác trong nhóm: Chủ nghĩa xă hội không đi ngược lại những lời răn dạy của Giáo Hội, thế nhưng phương pháp của những người cộng sản th́ chống lại Giáo Hội...”

   Ít năm sau Linh mục Wojtyla về làm cha xứ ở Krakow và cậu Stanislaw đă đến thăm ngài. Thấy trên giá sách của ngài có các tác phẩm của Marx, Lénin và Stalin, cậu đă hỏi: “Cha đă chuyển sang tư tưởng khác rồi sao?” Ngài trả lời: “Stanislaw! Nếu con muốn hiểu kẻ thù, con phải biết họ viết ǵ.” Ông khuyên cậu nói thật với cảnh sát những ǵ mà giới trẻ trong giáo xứ đang làm. Stanislaw kể lại: “Ông nói: Những điều xầu xa phải được khắc phục bởi những điều tốt đẹp. Chúng ta cần phải tạo ra một tấm gương tốt. Chúng ta cần thể hiện sự khiêm nhường của ḿnh.” Đây là một cách chống cộng mà Linh mục Wojtyla muốn lưu ư cậu.

   Trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, xuất bản năm 1995, Đức Giáo Hoàng John Paul II đă nói về chủ nghĩa cộng sản như sau:

   Điều mà chúng ta gọi là chủ nghĩa cộng sản th́ thực ra đă có lịch sử rồi. Đó là lịch sử phản kháng khi đương đầu với bất công mà tôi đă nhắc đến trong thông điệp Laborem Exercens – Sự phẫn nộ chính đáng của giới thợ thuyền, tiếp theo đă biến thành một ư thức hệ. Những sự phản kháng này cũng đă trở thành một phần trong các giáo huấn của Giáo Hội... Thực tế, chính Đức Giáo Hoàng Leo XIII, theo một nghĩa nào đó, ngài đă tiên đoán chế độ cộng sản sụp đổ rồi, một sự sụp đổ mà nhân loại, nhất là Âu Châu, phải trả một giá quá đắt, bởi v́ phương thuốc chữa trị, theo ngài viết từ năm 1891 trong bức thông điệp này, có thể chứng tỏ c̣n độc hại hơn là chính con bệnh. Đức Giáo Hoàng (Leo XIII) đă nói điều này với tất cả thái độ nghiêm chỉnh và uy quyền của bậc Thầy trong Giáo Hội.”

   Trong một đoạn khác, ngài đă viết:

   V́ thế, thật quá giản lược hóa khi cho rằng Thiên Chúa Quan Pḥng đă trực tiếp gây ra cuộc sụp đổ chế độ cộng sản này. Theo một nghĩa nào đó, chủ thuyết cộng sản như là một hệ thống đă tự nó sụp đổ. Chế độ đó sụp đổ chính là hậu quả của những lầm lạc và lạm dụng vô độ của chủ nghĩa. Chủ nghĩa cộng sản chứng tỏ là “một phương thuốc c̣n nguy hiểm hơn chính con bệnh.” Chủ thuyết này đă không thành công khi muốn đem lại một cuộc đổi mới xă hội thật sự, nhưng đă trở thành một mối đe dọa mạnh mẽ và một thách đố kinh hoàng cho toàn thế giới. Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ v́ những suy yếu nội tại của chính nó.”  

 

TRƯỜNG HỢP CỦA BALAN  

 

    Ảnh hưởng của Đức Giáo Hoàng đối với sự sụp đổ của chế độ cộng sản Ba Lan đă được diễn tả khá sinh động trong cuốn “His Holiness John Paul II and The Hidden History of Our Time” (Đức Giáo Hoàng John Paul II và Lịch Sử Bí Ẩn của Thời Đại Chúng Ta) của Carl Bernstein và Marco Politi ... 

    Đức Giáo Hoàng đă đến thăm Balan lần thứ hai vào năm 1983, khi phong trào Công Đoàn Đoàn Kết của Lech Walesa đang dấy lên khắp nơi và chính quyền Cộng Sản Ba Lan đă phải ban hành lệnh thiết quân luật và ra lệnh giải tán Công Đoàn để ngăn ngừa một cuộc nổi dậy. Trong bối cảnh đó, chính quyền cộng sản Ba Lan và Ṭa Thánh Vatican đă đạt được một thỏa thuận căn bản để Đức Giáo Hoàng có thể đến thăm Ba Lan: Chuyến viếng thăm này chỉ dành riêng cho vấn đề tôn giáo mà thôi...

    Đức Giáo Hoàng đă đến Ba Lan ngày 16.6.1983. Sau khi quỳ xuống hôn đất quê hương, ngài đă lên kêu gọi những người đang bị bắt bớ ở Ba Lan:

    Cha kêu gọi những người bị đày đọa hăy đến đây với cha. Cha kêu gọi lời này thay lời Chúa Jesus: Cha đă bị ốm và các con hăy đến thăm cha. Cha bị giam cầm, các con hăy đến với cha. Bản thân cha không thể tới thăm các con chiên đang bị giam cầm (đám đông xúc động), đến thăm tất cả các con chiên đang bị đày đọa. Nhưng cha kêu gọi họ hăy đến với cha trong tinh thần giúp đỡ cha, như họ vẫn luôn làm.”...

    Tướng Jaruzelski nhớ lại: “Đức Giáo Hoàng đă không đưa ra một tối-hậu-thư...  Ngài nói về giá trị của con người. Ngài nói rằng nhà nước phải quan tâm đến từng cá nhân con người, rằng đối thoại luôn luôn phải cần đến, và rằng tất cả các Công Đoàn có quyền tồn tại.” Ngài không tranh-luận quyết-liệt, mặc dầu ngay từ đầu hai bên đă có những bất đồng nghiêm trọng. Tướng Jaruzelsk thưa với Đức Giáo Hoàng: “Xin ngài dùng ảnh-hưởng của ngài giúp chúng tôi cô-lập phái quá-khích trong Công-Đoàn Đoàn-Kết, giúp chúng tôi bỏ lệnh cấm-vận của phương Tây, nhất là Mỹ.” Đức Giáo-Hoàng trả lời: “Tôi quan-tâm đến việc đạt tới một t́nh-trạng b́nh-thường càng sớm càng tốt”...

   Cũng như đa số người Việt, người công giáo Balan muốn Đức Giáo Hoàng lên tiếng chống chế độ cộng sản Ba Lan một cách nào đó để đưa chế độ này đến chỗ sụp đổ. Họ muốn ngài nói tiếng “Solidarity” biểu tượng cho phong trào Công Đoàn Đoàn Kết. Các kư giả Tây phương cũng vậy. Nhưng ngài đă không nói theo cách họ trông đợi mà giảng về một đề tài phức tạp hơn: “Hăy phân biệt rơ cái tốt và cái xấu”... Ngài nói: “Tùy vào các con mà có thể ngăn được sự suy đồi luân lư hay không, mà nói lên sự đoàn kết giữa con người hay không.”

   Buổi tối, hàng chục ngàn người đă diễn hành... Khi đi ngang qua ṭa nhà của Trung Ương Đảng Cộng Sản Balan, đoàn thanh niên đă hô to: “Solidarity! Solidarity! Walesa! Dân Chủ!.” Khi họ tập trung lại, Đức Giáo Hoàng nói:

   Con người được kêu gọi để chiến thắng chính ḿnh. Chính các vị thánh và các chân phước sẽ chỉ lối cho chúng con đường chiến thắng – sự chiến thắng mà Thiên Chúa đă đạt được trong lịch sử nhân loại.” Sự chiến thắng ấy đ̣i hỏi “lối sống trong sự thật, nghĩa là biết yêu thương người lân cận, nghĩa là biết đoàn kết giữa con người, nghĩa là trở về với lương tâm, gọi thẳng tên sự lành và sự dữ chứ không mập mờ..., nghĩa là phát triển nơi sự lành và t́m cách sửa sai sự dữ từ chính nơi ta.”

    Khi đến tu viện Black Madona ở Czestochova, Đức Giáo Hoàng... nói với giới trẻ Ban Lan:

   Các con đến với Đức Mẹ mang theo trái tim thương tích bởi những sầu muộn, có khi cả những thù hận. Sự hiện diện của các con biểu lộ được một sức mạnh chứng tá khiến cả thế giới phải ngỡ ngàng khi thấy người công dân Balan dùng chính bản thân làm phương tiện tranh đấu, với Phúc Âm trong tay, với lời kinh trên môi. Những h́nh ảnh ấy vào năm 1980 đă làm cho trái tim và lương tâm thế giới vô cùng xúc động.”

    Sau đó, trước sự chứng kiến của khoảng một triệu người, Đức Giáo Hoàng dâng lên Đức Mẹ tấm đai thắt lưng có một lỗ đạn do Ali Agca bắn vào ngài tại Công Trường Thánh Phêrô. Cả một khối người chăm chú, ngất ngất. Họ hô lên: “Xin ở lại với chúng con! Xin ở lại với chúng con!”...

          Có người cho rằng các chế độ cộng sản Đông Âu đă sụp đổ là do những mục nát từ bên trong. Nhưng trong thập niên 1980s hai chế độ cộng sản Việt Nam và Cuba c̣n mục nát hơn các chế độ cộng sản Đông Âu. Hơn nữa, CSVN đă sống bám vào các chề độ cộng sản Đông Âu và đă trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới. Tại sao hai chế độ này đă không sụp đổ?

    Tờ “Inside the Vatican” (Bên trong Vatican) số ra ngày 4.4.2005, cho biết trong một cuộc phỏng vấn, Đức Hồng Y Joachim Meisner, Tổng Giám Mục Cologne ở Đức, người đă từng sống dưới thời cộng sản Đông Đức, cho biết người dân Đông Đức ghi ơn Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II v́ ngài đă giúp làm sụp đổ chế độ cộng sản...  

 

TRƯỜNG HỢP CỦA CUBA  

 

    Năm 1998, Đức Giáo Hoàng đă đến thăm Cuba ... (vân vân)"

Tú Gàn           

 

       2/  Theo nhà văn TRẦN PHONG VŨ:  

 

"ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH CS.

CỦA CÔNG GIÁO & ĐGH JP II  

 

Quả vậy... Với tư cách là con dân đất nước, Đức Gioan-Phaolô 2 đă tranh đấu ôn ḥa cho nhân quyền của người dân Ba Lan... Ngài cực lực tranh đấu cho nhân quyền của mọi người dân trên thế giới, trong đó có quyền được sống tự do theo niềm tin tôn giáo của ḿnh trong sự kính trọng mọi tôn giáo anh em.

Rất nhiều người, thiện cảm với Giáo Hội Công Giáo La Mă cũng có mà  ác cảm hoặc chống đối cũng có, thường nghĩ như thật rằng: "Vatican là một ổ gián điệp thế giới, đă từng ngấm ngầm cấu kết với đế quốc Mỹ để 'chống cộng' đến kỳ cùng. Và cộng sản mà có sụm ba chè là cũng nhờ có bàn tay lông lá của Mỹ và nhất là mật vụ của Vatican nhúng vào". Đúng hay sai là một chuyện, nhưng quan điểm của vị giáo chủ Vatican th́ hoàn toàn khác. Thực vậy, 3 tháng sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, Đức Gioan-Phaolô 2 tuyên bố vào ngày 21/02/1990 trong khi tiếp đoàn người hành hương tại Vatican: "Chính Thiên Chúa đă thắng ở Phương Đông"...

Ngược đời ở chỗ là Ḷng Tin cho thấy có bàn tay Thiên Chúa trong những biến cố xảy ra trong trần thế, nơi con người và xă hội loài người, do bởi chính con người chủ động làm ra. Trong quyển "Bước vào ngưỡng cửa hy vọng" xuất bản năm 1994, Đức Gioan-Phaolô 2 giải thích nguyên do trước mắt, có thể kiểm chứng được, của sự tan ră của chế độ cộng sản Liên Xô: "Chính hệ thống cộng sản đă, một cách nào đó, tự nó làm cho nó sụp đổ. Sự sụp đổ của nó là hậu quả của những hành động sai lầm và quá khích của nó. Muốn chữa bệnh, nó lại nguy hại hơn chính con bệnh. Trở thành một đe dọa hùng hậu và một thách đố ghê gớm (đối với xă hội), nó lại không thành công cải tạo thật sự xă hội. Cộng sản tự suy sụp, do bởi nội lực của nó yếu kém."  

 

Không "chống cộng" và không "dương uy"

Tuy vậy, nhiều người vẫn c̣n nghĩ rằng Đức Gioan-Phaolô 2 có đóng một vai tṛ trực tiếp và quan trọng trong vụ này. Họ cho rằng Ngài phải là một người tài trí xuất chúng, đầy mưu lược, "chống cộng cùng ḿnh", bởi v́ Ngài là giáo chủ một tôn giáo không đội trời chung với cộng sản và nhất là v́ Ngài đến từ một đất nước mà người công giáo có tiếng là thành phần chống cộng ĺ nhất thế giới. Không, không hoàn toàn như vậy đâu! Ngài và Giáo Hội Công Giáo ngày nay nhất định không "chống cộng" theo cái nghĩa phe đảng, bè phái, cục bộ, giáo điều, bất bao dung, điên rồ, cố chấp trong thái độ "không đội trời chung", và càng không theo cái nghĩa "tay sai", "vụ lợi" hay "bán linh hồn" cho ai cả!"  

 

        3/  Theo nhà báo TrẦn ĐẠi HẢi:  

 

"Fri, 24 Feb 2006 15:02:57 +0100

TRAN DAI HAI : Danh Tong Thong Dien

Đánh tổng thống điên?  

 

Ngày 15.2.2006 Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice đă đề nghị quốc hội Mỹ chi ngân khoản 75 triệu Mỹ kim để sử-dụng vào việc ‘dân chủ hoá’ Iran. 
Ngân sách này sẽ được bổ sung vào ngân khoản 60 triệu mà quốc hội Mỹ đă thông qua cho cho năm tài khoá 2006...
Bộ ngoại giao Mỹ hy vọng là sẽ khuấy động lên một phong trào chính trị tại Iran tương tự phong trào Công đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan trong thập niên 80."

*

Theo 2 bài báo tiêu-biểu của 2 tác-giả Ky-Tô-Giáo trích trên, th́:

a)  Ông Tú Gàn viết:  Trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, Đức Giáo Hoàng John Paul II đă nói về chủ nghĩa cộng sản như sau:  thật quá giản lược hóa khi cho rằng Thiên Chúa Quan Pḥng đă trực tiếp gây ra cuộc sụp đổ chế độ cộng sản này.

Trước đó, trong bài “Chỉ Làm Công Cụ Thôi” đăng trên “Saigon Nhỏ” ngày 13-8-2004, ông Tú Gàn đă viết:  Đức Giáo Hoàng không hềlên tiếng chống lại những hành vi chà đạp của nhà nước CS đối với tự do tôn giáo và những phẩm giá khác của con người cũng như những tương quan công lư và đạo đức trong xă hội” như Linh mục Trần Xuân Tâm và nhóm Diễn Đàn Giáo Dân đă đ̣i hỏi Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và HĐGMVN...”

        b)  Ông Trần Phong Vũ viết:  nhiều người vẫn c̣n nghĩ rằng Đức Gioan-Phaolô 2 có đóng một vai tṛ trực tiếp và quan trọng trong vụ này. Họ cho rằng Ngài phải là một người... Không, không hoàn toàn như vậy đâu!

        Cũng như ông Tú Gàn, ông Trần Phong Vũ đă trích dẫn một đoạn văn nổi bật của chính Giáo-Hoàng Gioan PhaoLồ II viết:  "Chính hệ thống cộng sản đă, một cách nào đó, tự nó làm cho nó sụp đổ. Sự sụp đổ của nó là hậu quả của những hành động sai lầm và quá khích của nó... Cộng sản tự suy sụp, do bởi nội lực của nó yếu kém."

        Ông Trần Phong Vũ c̣n ngụ ư nói là cố Giáo-Hoàng không hợp-tác với Hoa-Kỳ trong vụ này.  

 

        Trong lúc đó, theo bài báo của ông Trần Đại Hải th́:

“Ngày 15.2.2006 Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice... Bộ ngoại giao Mỹ hy vọng là sẽ khuấy động lên một phong trào chính trị tại Iran tương tự phong trào Công đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan trong thập niên 80.”

        Ông Trần Đại Hải xác-nhận là bàn tay khuấy-động của Hoa Kỳ trong vụ Ba-Lan.

        Về sự mâu-thuẫn hoặc khó hiểu này, ông Tú Gàn viết: “Cho đến nay, các sử liệu liên quan đến vấn đề này vẫn chưa được công bố, nên chúng ta khó có thể bàn đến một cách chính xác được.  

 

 

III/  BA-LAN KỶ-NIỆM 25 NĂM THOÁT ÁCH CÔNG-ĐOÀN ĐOÀN KẾT (1980-2005):  

 

        Ngày 30-8-2005, Ba-Lan hân-hoan tổ-chức Lễ Kỷ-Niệm 25 Năm Công-Đoàn Đoàn-Kết tại nhiều thành-phố ở Bắc Ba-Lan, địa-điểm chính là Gdansk, cái nôi của phong-trào và lực-lượng chống Cộng do Lech Walesa lănh-đạo; và chính Lech Walesa (người lật đổ cộng-sản, lên làm Tổng-Thống từ 1990 đến 1995) đến chủ-tọa và thuyết-tŕnh.  Đương kim Tổng thống Balan, ông Alexandre Kwasniewski (trước kia là cộng-sản) có đến phát-biểu ở phần khai-mạc...

Trong số quan-khách (có cả phái đoàn Người Việt Hải-Ngoại); có ông Dan Fried, phụ tá Ngoại-Trưởng Hoa-Kỳ đặc trách Âu châu và Âu Á sự vụ, và tiến sĩ Zbigniew Brzezinski, cựu cố vấn an ninh quốc gia Hoa-Kỳ, lên thuyết-tŕnh...

Nhà báo Đông Giang TỬ đă viết bài tường-thuật tại chỗ.  

 

Điều đáng nói hơn hết là, theo bài tường-thuật, nhân-vật chủ-chốt Lech Walesa, trong suốt buổi lễ, nhất là trong bài nói chuyện, đă không đề-cập ǵ đến, dù chỉ cái tên, của cố Giáo-Hoàng Gioan PhaoLồ II trong sự-nghiệp giải-thể chế-độ cộng-sản Ba-Lan.

Không lẽ ông Lech Walesa không nhớ đến cố Giáo-Hoàng, mới chết vào ngày 02-4-2005, trước đó chưa đầy 5 tháng, hoặc giả kư-giả Đông Giang Tử ghi sót?

Nhưng đó là chuyện nhỏ, của cá-nhân.  C̣n về chuyện lớn, của lịch-sử?  

 

 

IV/  ĐI T̀M SỰ THẬT

 

Về các sử-liệu liên-quan đến vấn-đề này, xin mời đọc thêm chi-tiết cụ-thể ở phần viết về Giáo-Hoàng John Paul II, ít nhất là về các điểm sau đây:

-- Phần đóng góp của cố GH JPII, mà kẻ th́ tin tuyệt-đối, người th́ chỉ tin một phần; ngay chính Ngài cũng không nhận hết công của ḿnh mà nói là do Thiên-Chúa an-bài và do cộng-sản tự-hủy mà thôi;

-- Phần đóng góp của Hoa-Kỳ (đặc-biệt cơ-quan CIA); v.v...  

(xem tài-liệu lịch-sử)

 

        Riêng về lư-do tại sao Liên-Xô để yên cho Ba-Lan, là một nước chư-hầu của Liên-Xô, vượt thoát ra khỏi gọng ḱm của ḿnh, mà không có một phản-ứng nào cả, th́ tôi tạm ghi dưới đây một ít dấu mốc thời-gian, để tự chúng giải-đáp câu hỏi này:

 

         1970:  Kinh-tế, huyết-mạch chính của Liên-Xô bắt đầu tŕ-trệ, giảm bớt sức ép quân-sự, kinh-tế, và chính-trị, đối với Ba-Lan.

        Lech Walesa, thợ điện xưởng tàu Gdansk, đứng lên, yêu-sách tăng lương công-nhân, đ̣i quyền đ́nh-công và lập nghiệp-đoàn tư-nhân, bị tù, và vẫn tiếp-tục tranh-đấu cam-go, về sau trở thành lănh-tụ của phe Dân-Chủ, Tự-Do.

        1971:  Liên-Xô bớt căng-thẳng với Hoa-Cộng; đồng-thời Tổng-Bí-Thư Brezhnev mở các cuộc đàm-phán với Hoa-Kỳ.

        1972:  Tổng-Thống Hoa-Kỳ Nixon viếng Mạc-Tư-Khoa; hai bên kư thỏa-ước hạn-chế vũ-khí chiến-lược (SALT-1), mở đầu thời-kỳ hết căng-thẳng.

        1973:  Chiến-tranh Việt-Nam chấm dứt, chấm dứt đụng-độ quân-sự giữa hai Khối; Brezhnev viếng Tây-Đức vào tháng 5, viếng Hoa Kỳ vào tháng 6.

        1973:  Lê Xuân Nhuận bắt đầu tấn-công điệp-báo vào 2 nước cộng-sản Ba-LanHung-Gia-Lợi, từ tháng 9 (tuyển-dụng đuợc nhiều cán-bộ t́nh-báo và quân-sự cao-cấp tại 2 nước này làm việc cho CIA).

        1974:  Tổng-Thống Nixon lại viếng Liên-Xô; Breznev nhượng-bộ Hoa-Kỳ (triển hạn thỏa-ước SALT-1, cải-thiện sinh-môi, nới rộng thương-mại, v.v...) để hưởng quy-chế tối-huệ-quốc.  Các sắc-tộc thuộc Liên-Xô đ̣i tự-trị.

        1975:  Kinh-tế Liên-Xô bắt đầu khủng-hoảng trầm-trọng, nhất là v́ chạy đua không-gian, ảnh-hưởng xấu trên mọi lănh-vực.  Liên-Xô và Hoa-Kỳ hợp-tác thám-hiểm không-gian.

        1978Walesa cùng các đồng bạn lập nhiều công-đoàn tự-do tại nhiều nơi.  Hồng-Y Karol Wojtyla được bầu làm Giáo-Hoàng ngày 16-10, lấy danh-hiệu là John Paul II.

        1979:  Brezhnev kư thỏa-ước SALT-2 với tổng-thống Hoa-Kỳ Carter vào tháng 6,  nhưng lại can-thiệp vào Afghanistan vào tháng 12, nên bị Hoa Kỳ cấm vận lúa gạo, khiến Liên-Xô suy-yếu thêm.

        1979:  Đồng-thời, Gorbachev (thuộc thế-hệ mới, sinh sau Cách-Mạng 1917) vào Bộ Chính-Trị Trung-Ương Đảng, coi về Tổ-Chức (Nhân-Sự), có đầu óc phóng-khoáng, lănh-hội tinh-hoa sinh-hoạt chính-trị Tây-Phương (cầm đầu phái-đoàn đi Tây-Đức năm 1975, đi Canada hội-đàm với thủ-tướng Trudeau năm 1983, đi Anh gặp nữ-thủ-tướng Thatcher năm 1984), chú-trọng nâng-đỡ thế-hệ trẻ.

        Giáo-Hoàng John Paul II viếng Hoa-Kỳ lần đầu tiên vào tháng 10 (gặp Tổng-Thống Carter vào ngày 6), sau khi đă về thăm Ba-Lan lần đầu tiên vào tháng 6.

        Thời-gian này, Liên-Xô bị khủng-hoảng nội-bộ:  Thủ-Tướng  Kosygin lủng-củng với Bí-Thư Thứ Nhất Brezhnev từ lâu, nay phải từ-chức vào năm 1980, Brezhnev bệnh nặng rồi chết vào năm 1982, Andropov lên thay rồi chết vào năm 1984, Chernancho lên thay rồi cũng chết vào năm 1985.

        1980:  Các nước thuộc Liên-Bang Xô-Viết bắt đầu tuyên-bố độc-lập.  Hoa-Kỳ ngưng chở ngũ-cốc qua Liên-Xô, tẩy chay Olympic tổ-chức tại Mạc-Tư-Khoa.

        1980:  Chính-quyền Ba-Lan gặp phải khó-khăn kinh-tế hơn 10 năm quaLech Walesa, trở lại xưởng tàu Gdansk và được bầu làm thủ-lănh Công-Đoàn, từ nay mang tên “Đoàn-Kết”.  Có các giới khác kể cả sinh-viên và trí-thức cùng tham-gia.  Công-đoàn dần-dà trở thành phong-trào chính-trị chống-Cộng lan khắp Ba-Lan và các nước đồng-cảnh xung quanh.  Các cuộc đ́nh-công phản-kháng gây đ́nh-trệ cho sinh-hoạt chung, nhà cầm quyền phải nhượng-bộ, chấp-thuận quyền đ́nh-công và lập công-đoàn tự-do, từ ngày 31 tháng 8.

        Walesa được Tổ-Chức Lao-Động Quốc-Tế (International Labor Organization) mời đi du-thuyết tại Ư, Nhật, Thụy-Điển, Pháp, Thụy-Sĩ...

        1981:  Ông Ronald Reagan nhậm-chức Tổng-Thống Hoa-Kỳ.

        Cộng-đảng Ba-Lan đàn-áp, giải-tán công-đoàn Đoàn-Kết và bắt Walesa vào ngày 13-12.

        1982:  Cộng-đồng quốc-tế phản-đối, các tu-sĩ Ky-Tô-Giáo cầu-nguyện, tổng-thống Reagan cấm vận kinh-tế Ba-Lan, và CIA chính-thức yểm-trợ cho các hoạt-động bí-mật của công-đoàn Đoàn-Kết, từ nay lan rộng trong quần-chúng.

        1985:  Gorbachev lên làm Tổng-Bí-Thư Liên-Xô, chủ-trương Perestroika (cải-cách kinh-tế và xă-hội, cho phép tư-hữu và ngoại-thương) cùng với Glasnost (cởi-mở tư-duy, cho phép tự-do ngôn-luận, phóng-thích tù chính-trị và đối-lập); mưu-cầu quan-hệ và giao-thương với Tây-Phương; được Tây-Phương hoan-nghênh "Tư-Tưởng Mới".

        Do đó, Hung-Gia-Lợi bắt đầu phát-động phong-trào giải-thể “Minh Ước Vác Xô Vi” (WARSAW PACT= tổ-chức liên-quân Liên-Xô đặt tại Ba-Lan) và chuyển qua dân-chủ đa-đảng cùng kinh-tế thị-trường.

        1986:  Gorbachev gặp Tổng-Thống Hoa-Kỳ Reagan vào ngày 11 tháng 10, đàm-phán về việc giảm-thiểu vũ-khí và lực-lượng hạt nhân tại Âu-Châu (sau đó kư-kết thỏa-ước INF).  Gorbachev cho tự-do thông-tin.  Hằng loạt tù chính-trị Ba Lan được trả tự-do, Walesa thiết-lập cơ-cấu công-đoàn Đoàn-Kết công-khai và hợp-pháp.

        1987:  Gorbachev phát-động dân-chủ-hóa, cho phép bầu-cử ứng-viên ngoài-Đảng vào guồng máy chính-trị Xô-Viết.

        1988:  Gorbachev triệt-để đổi mới, rút quân Xô-Viết ra khỏi Afghanistan vào tháng 2, giảm bớt ảnh-hưởng của Đảng trong cơ-cấu Nhà-Nước từ tháng 6, thành-lập Quốc-Hội Đại-Biểu Nhân-Dân, cơ-cấu lập-pháp cho phép tu-chính Hiến-Pháp vào tháng 8; và quan-trọng hơn hết là chủ-trương bất-can-thiệp, công-bố từ-bỏ chủ-thuyết bá-chủ của Breznev trước kia, cho phép các nước trong Khối cộng-sản Đông-Âu tự-quyền quyết-định mọi việc nội-bộ của ḿnh.  Việc này dẫn đến một loạt các cuộc cách-mạng lật đổ các chế-độ cộng-sản tại Đông-Âu từ đó cho đến năm 1989.  Kinh-tế Ba-Lan tồi-tệ nhất sau 8 năm liên-tiếp èo-ọp, và Cộng-sản nước này phải xin thương-thuyết với Walesa, sau nhiều đợt tranh-đấu quyết-liệt của công-đoàn. 

1989:  Gorbachev tổ-chức bầu-cử quốc-hội kiểu mới, cho bầu-cử tự-do và cải-tổ tại khắp các nước trong Liên-Bang, chấm dứt chủ-nghĩa công-sản, vào tháng 3 và 4.  Công-đoàn Đoàn-Kết ở Ba-Lan gặp thuận-lợi được hợp-thức-hóa và có nhiều ứng-cử-viên đắc-cử vào quốc-hội.   

1989:  Cộng-sản Hung-Gia-Lợi bị giải-thể vào ngày 23-10.  Chính-phủ không cộng-sản nước này mở cửa biên-giới cho dân Đông-Đức chạy qua tị-nạn từ ngày 10 tháng 9.  Bức tường Bá-Linh được khai-thông từ ngày 9 tháng 11.

1990:  Quốc-Hội Đại-Biểu Nhân-Dân Nga-Xô biểu-quyết chấm dứt vai tṛ lănh-đạo chính-quyền của đảng cộng-sản vào ngày 14-3, tiếp theo Gorbachev được bầu làm Tổng-Thống Liên-Bang Nga vào ngày 15-3.  Ông được tặng giải thưởng Nobel về Ḥa B́nh ngày 15-10.  Bộ bách-khoa từ-điển New “Encyclopaedia Britannica” mệnh-danh Gorbachev là “người khởi-xướng duy-nhất và quan-trọng nhất của một loạt các biến-cố cuối năm 1989 và trong năm 1990 thay-đổi cơ-cấu chính-trị Âu-Châu đồng-thời mở đầu giai-đoạn kết-thúc của cuộc Chiến-Tranh Lạnh”.

1990:  Walesa được bầu làm Tổng-Thống ngày 9 tháng 12, và Cộng-sản Ba-Lan bị chính-thức giải-thể vào ngày 25 tháng12...  

*

Các lời phát-biểu liên-quan, về sau, chỉ là chủ-quan, phiến-diện, dựa vào kết-quả tranh-đấu của Công-Đoàn Đoàn-KếtWalesa của Ba-Lan, v́ đó là quê-hương và mục-tiêu trước mắt của Giáo-Hoàng John Paul II, chứ không căn-cứ vào Sự Thật Lịch-Sử trong toàn-cảnh Châu Âu, là cả một loạt giải-thể các chế-độ cộng-sản mà, về phía cộng-sản, chính Gorbachev đă tự ḿnh mở trói cho chính Liên-Xô, khiến nhiều quốc-gia thành-viên thoát ách cộng-sản ít nhất là từ năm 1986, cũng như để yên cho Ba-Lan về với Thế-Giới Tự-Do sau này.

Chủ-trương của Gorbachev dù sao cũng gặp trở-ngại v́ sự chống-đối nội-bộ, gây nên tŕ-chậm; và chính quyết-tâm cùng các nỗ-lực tích-cực và cụ-thể của Tổng-Thống Reagan đă giúp Gorbachev đẩy mạnh tiến-tŕnh, nhất là biến lời cầu-nguyện của Giáo-Hoàng John Paul II dành cho Ba-Lan trở thành hiện-thực một cách nhanh-chóng, dễ-dàng.

(xem tài-liệu lịch-sử)

 

LÊ XUÂN NHUẬN     

 

John Paul II                                                  Kết-Luận