ÔNG NGÔ Đ̀NH DIỆM CÓ CẦN TIỀN KHÔNG?

đến bao giờ mới có? và có từ bao giờ?

 

 

          Quư Vị muốn làm một việc ǵ, dù là công-tác từ-thiện, hoạt-động văn-hóa xă-hội, Quư Vị có cần tiền không?

          Huống ǵ lănh-đạo một chính-quyền, trong một quốc-gia nghèo-yếu, giữa một t́nh-h́nh rối-reng, như Miền Nam Việt-Nam vào giữa năm 1954, Thủ-Tướng (rồi Tổng-Thống) Ngô Đ́nh Diệm có cần tiền không?

          Vậy th́ câu hỏi là tiền ấy ở đâu mà ra?  bao giờ mới có?  Và khi đă bị tùy-thuộc vào tiền của người khác th́ ḿnh có c̣n "độc lập" hay không?

          Xin nhắc một câu châm-ngôn trong giới tài-chính: Ai chi tiền, người ấy chỉ-huy" (Who pays governs).

 

          Sau đây là vài tài-liệu cho thấy t́nh-h́nh kinh-tế tài-chánh vào những năm đầu của thời Đệ-Nhất Cộng-Ḥa.

 

 

Theo Ông NGUYỄN HỮU HANH

(Phó giám đốc sở tín dụng Ngân hàng Trung ương ba nước Đông Dương; Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam kiêm Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Thương Tín và Cố vấn kinh tế tài chánh cho Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm):

 

          ... Các ngân hàng Pháp từ-chối tài-trợ (Việt-Nam trong) việc nhập-cảng các mặt hàng chính-yếu từ mùa thu 1955.

Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam vào lúc đó hầu như chỉ gồm toàn đồng Phật-lăng “nội địa” thu được từ mặt hàng cao su xuất cảng qua Pháp và gạo xuất cảng qua các thuộc địa Pháp ở châu Phi.  Đồng Phật-lăng của chúng ta không hoán đổi được; mỗi năm Ngân hàng Quốc gia Pháp (Banque de France) chỉ cho chúng ta đổi một số lượng nhỏ lấy những đồng tiền hoán đổi được như đồng Đô-la Mỹ, đồng Bảng Anh, đồng Mác Đức hay đồng Yên NhậtĐồng tiền Pháp cứ liên tục giảm giá.  Cứ mỗi lần giảm giá hay chính phủ Pháp phá giá như vậy th́ chúng ta lại mất một tỉ lệ phần trăm trị giá ngoại tệ dự trữ.  Như vậy tuy chúng ta đă giành được độc lập chính trị từ tay người Pháp năm 1955, nhưng trên b́nh diện tiền tệ th́ chúng ta vẫn c̣n là một thuộc địa của Pháp.  (Có) sự bất b́nh đẳng trong hệ thống chi trả với Pháp, sự suy yếu của dự trữ ngoại tệ và sự hao hụt trị giá đồng tiền Việt Nam liên hệ với hệ thống tiền tệ của Pháp.  Hơn thế nữa, số vàng dự trữ của chúng ta (33 tấn rưỡi) mà quân Pháp lấy được từ tay quân Nhật sau khi Nhật bại trận năm 1945 đă bị chở về Pháp khi lính Pháp rút về nước năm 1955, và chúng ta không có vàng để hỗ trợ cho đồng tiền quốc gia kể từ lúc đó.

           Đầu năm 1957 đồng Phật-lăng Pháp lại bị phá giá một lần nữa; (có) những mất mát to lớn trong dự trữ ngoại tệ do việc đồng tiền Pháp mất giá và phá giá nhiều lần gây nên.  Tháng 6 năm 1957, đồng tiền Pháp sắp sửa bị phá giá một lần nữa, tôi vào gặp ông Diệm và khuyên ông nên rời bỏ khu vực đồng Phật-lăng PhápĐông Dương Ngân hàng (cuả Pháp), lúc bấy giờ vẫn c̣n nắm giữ một phần đáng kể cái quyền lực tài chánh của nó ở Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa... . (Xem thêm 1)

(Trích từ cuốn hồi kư Brushing the World Famous [“Làm việc với các nhân vật danh tiếng thế giới”] của Nguyễn Hữu Hanh). (Xem Phụ Bản)

Ư Chính:  Đến giữa năm 1957, nguồn tài+ngân của Đệ-Nhất Cộng-Ḥa vẫn c̣n nằm trong tay Pháp.

 

 

Theo Linh-Mục CAO VĂN LUẬN  

(Cộng-sự-viên thân+tín của cố TT Ngô Đ́nh Diệm, cựu Viện Trưởng Viện Đại-Học Huế):

 

    ... Vào ngày mồng 3 Tết năm 1957...  theo thường lệ ông Diệm ra Huế dự lễ giỗ cụ Khả. Tôi đến chào ông tại nhà ông Cẩn, và ngay đầu câu chuyện ông Diệm nói:

    ...  ít hôm nữa tôi sẽ sai một phái đoàn ra đây để gặp cha, để thảo luận và nghiên cứu các chi tiết cụ thể...  việc thành lập Đại học Huế...

Khoảng một tháng sau, một phái đoàn từ Sài G̣n ra gặp tôi...

    Mấy hôm lưu lại Huế, phái đoàn đi xem những cơ sở đất đai có thể dùng làm Đại học Huế, như ...  ngân hàng Đông dương vừa được chính phủ mua lại ...

(trích “BÊN GỈNG LỊCH SỬ 1940–1965” hồi kư của Linh-Mục Cao Văn Luận)

Tức là măi đến năm 1957 ngân hàng Đông Dương (Banque de l’Indochine) của Pháp mới chịu bán (đóng cửa) chi nhánh ở Huế (các chi-nhánh trước, trụ-sở chính sau); sau đó đồng bạc Việt Nam Cộng Ḥa mới bắt đầu thoát khỏi hệ-thống tiền-tệ của Pháp (trước đó là tiền nằm trong tay Pháp).

 

 

Theo kư-giả TÚ GÀN

(tức LỮ GIANG, bút-danh của Ông NGUYỄN CẦN):

 

  ... “Ngày 26.5.1964, Đại Sứ Cabot Lodge có gởi cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ một văn thư, trong đó có đoạn tŕnh như sau:
         “Tướng
(Nguyễn) Khánh nói với tôi ngày 25 tháng 5 rằng khi ông (Ngô Đ́nh) Diệm bị bắn ông ta có trong tay một cái cặp chứa một triệu đô la ‘loại tiền lớn nhất’... .

(Trích từ bài viết “Mặt thật hàng tướng Big Minh” của Tú Gàn ‒ Subject: Hang tuong Big Minh ‒ To: lh_cuuquannhan_vnch@yahoogroups.com ‒
Date: Sunday, April 26, 2009, 1:55 AM)

Một triệu đô-la Mỹ ấy từ đâu mà ra? Sao lại bảo là Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm thanh-liêm, thanh-bạch, không màng của-cải riêng tư?

 

 

Theo ông NGUYỄN ĐỨC XÍCH

(Cựu Tỉnh Trường Tỉnh Long An dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa):

Tổng Thống thường hay gọi anh Xích lên, trao cho số tiền lương tổng thống hàng tháng và nói: "Cơm nước có người lo, tôi không cần tiền tiêu, anh mang về xem dân nghèo th́ cho họ".

[Nuoc_VIET] TRUNG TÁ NGUYỄN ĐỨC XÍCH: NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT..

Sunday, October 4, 2009 11:43 PM

From:

 

 

 

Nguyễn Hữu Hanh:

 

T́nh trạng khủng hoảng chính trị và xă hội tiếp sau đó đă tạo nên một sự bất an và rối loạn trong giới kinh doanh; tất cả các mặt hàng nhập cảng chủ yếu bị dừng lại, đe doạ nguồn cung cấp c̣n dễ bị tổn thương của đất nước. Giá cả tăng vọt và chợ đen nở rộ. Các ngân hàng thương mại hầu hết do người Pháp sở hữu, từ chối không chịu tài trợ nhập cảng v́ muốn phá Diệm hơn là v́ những lư do kinh doanh. Những công ty Pháp đang thống trị thị trường hàng nhập khẩu từ chối không chịu mạo hiểm và lặng lẽ giao hàng tồn kho cho những tay lái buôn Trung Hoa để đổi lấy những món lời khổng lồ chuồi dưới mặt bàn.  

các ngân hàng Pháp từ chối tài trợ việc nhập cảng các mặt hàng chính yếu từ mùa thu 1955

Với một ê-kíp như vậy, Trần Hữu Phương làm Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, Hà Văn Vượng Bộ trưởng Tài chánh, Mẫu Bộ trưởng Ngoại giao, cùng với phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ phụ trách kinh tế tổng quát, tất cả đều thiếu kiến thức tài chánh tiền tệ như vậy, tôi phải tự ḿnh nhận lấy trách nhiệm thiết lập một hệ thống tiền tệ tài chánh mới cho đất nước bằng cách cắt đứt tất cả những mối quan hệ lâu nay giữa đồng tiền Việt Nam và hệ thống đồng tiền Pháp, và thương lượng một mối quan hệ tiền tệ mới giữa Pháp và nước nhà.

 

Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam vào lúc đó hầu như chỉ gồm toàn đồng Phật-lăng “nội địa” thu được từ mặt hàng cao su xuất cảng qua Pháp và gạo xuất cảng qua các thuộc địa Pháp ở châu Phi. Đồng Phật-lăng của chúng ta không hoán đổi được; mỗi năm Ngân hàng Quốc gia Pháp (Banque de France) chỉ cho chúng ta đổi một số lượng nhỏ lấy những đồng tiền hoán đổi được như đồng Đô-la Mỹ, đồng Bảng Anh, đồng Mác Đức hay đồng Yên Nhật. Nước Pháp đă trải qua một giai đoạn rối loạn chính trị và bất an xă hội kéo dài, kèm theo những khó khăn rất lớn về mặt kinh tế tài chánh, và đồng tiền Pháp cứ liên tục giảm giá. Cứ mỗi lần giảm giá hay chính phủ Pháp phá giá như vậy th́ chúng ta lại mất một tỉ lệ phần trăm trị giá ngoại tệ dự trữ. Như vậy tuy chúng ta đă giành được độc lập chính trị từ tay người Pháp năm 1955, nhưng trên b́nh diện tiền tệ th́ chúng ta vẫn c̣n là một thuộc địa của Pháp. Không ai trong chính phủ tỏ vẻ quan tâm tới sự bất b́nh đẳng trong hệ thống chi trả với Pháp, tới sự suy yếu của dự trữ ngoại tệ và sự hao hụt trị giá đồng tiền Việt Nam v́ liên hệ với hệ thống tiền tệ của Pháp. Hơn thế nữa, số vàng dự trữ của chúng ta (33 tấn rưỡi) mà quân Pháp lấy được từ tay quân Nhật sau khi Nhật bại trận năm 1945 đă bị chở về Pháp khi lính Pháp rút về nước năm 1955, và chúng ta không có vàng để hỗ trợ cho đồng tiền quốc gia kể từ lúc đó.

Tháng 11/1956 sau khi đă hoàn tất việc tổ chức và sắp xếp lại Ngân hàng Quốc gia, tôi quyết định tiến công vào các vấn đề đă ám ảnh tôi hơn một năm qua: sự cần thiết phải thương lượng một hiệp định tiền tệ mới với Pháp, sự cần thiết phải chuyển số dự trữ bằng đồng Phật-lăng Pháp của chúng ta qua các đồng tiền hoán đổi được để tránh bị hao hụt thêm nữa trị giá dự trữ ngoại tệ của chúng ta, sự cần thiết phải thu hồi số trữ kim đang nằm ở Ngân hàng Quốc gia Pháp, sự cần thiết phải đ̣i lại số nợ của Ngân Khố Pháp và sự cần thiết phải cải thiện mối quan hệ tiền tệ, tài chánh với Pháp để đ̣i hỏi viện trợ kinh tế tài chánh của họ; đó là những mục đích chính của Việt Nam trong khi đối thoại với nước Pháp. Sau khi thông báo với Tổng thống Diệm, tôi đă đi Pháp một chuyến để viếng thăm Ngân hàng Quốc gia Pháp và Quai de Rivoli, tức Bộ Tài chánh Pháp, và bắt đầu thăm ḍ quan điểm của người Pháp về các vấn đề này. Tôi nghĩ rằng với tư cách là cố vấn của Tổng thống, với sự am hiểu vấn đề và nhiệt tâm phục vụ đất nước, tôi có thể đạt được một sự đáp ứng nào đó từ phía nhà cầm quyền Pháp. Tôi đă nhầm. Tôi cần phải có được sự uỷ quyền của Tổng thống Diệm. Nhà cầm quyền Pháp biết rơ rằng Diệm tập trung mọi quyền bính trong tay ông, biết tôi là người cố vấn tin cẩn của ông trong lănh vực kinh tế tài chánh, nhưng họ không được thông báo chính thức về chuyến viếng thăm và công cán của tôi. Điều này chỉ được thực hiện về sau qua toà đại sứ Pháp ở Sài G̣n.

Đầu năm 1957 đồng Phật-lăng Pháp lại bị phá giá một lần nữa; và một lần nữa không ai trong chính phủ tỏ vẻ quan tâm tới những mất mát to lớn trong dự trữ ngoại tệ do việc đồng tiền Pháp mất giá và phá giá nhiều lần gây nên. Tháng 6 năm 1957, cảm thấy được đồng tiền Pháp sắp sửa bị phá giá một lần nữa, tôi vào gặp ông Diệm và cảnh giác ông vụ hao hụt mất mát dự trữ ngoại tệ đang lăm le xảy đến. Tôi khuyên ông nên rời bỏ khu vực đồng Phật-lăng Pháp, có sự thoả thuận hay không có thoả thuận với Pháp cũng được. Nhưng trước khi dùng tới biện pháp cuối cùng này, chúng ta nên thương lượng để đạt được một hiệp định mới giữa hai quốc gia. Tôi nói với ông Diệm rằng ông phải để tôi đi Paris để nêu những vấn đề này và để bắt đầu thương lượng một thoả ước tiền tệ mới với nước Pháp. Tôi mô tả chi tiết những vấn đề đang tồn đọng giữa hai quốc gia. Ông Diệm lắng nghe một cách cẩn thận đoạn bảo tôi khởi hành càng sớm càng tốt để thực hiện cái công việc khổng lồ như kiểu Hercules trong thần thoại đó. Nhưng nh́n vào mắt ông, tôi có thể thấy là tận đáy ḷng ông, ông không tin là tôi có thể một ḿnh làm nổi công việc to tát ấy, không tin tôi có thể gặp một nhân vật nào đó đủ quyền lực và uy tín chính trị ở Pháp để thực hiện sự nhượng bộ đầu tiên và hết sức quan trọng cho một nước thuộc địa cũ. May mắn cho đất nước và cho chính tôi, tôi đă gặp nhân vật ấy ở Bộ trưởng Tài chánh Pháp Antoine Pinay.

Những sự kiện bước đầu chứng tỏ là ông Diệm đă sai lầm, v́ vậy ông ủng hộ tôi nhiều hơn nữa và tin tôi nhiều hơn nữa khi tôi hoàn toàn lao ḿnh vào các cuộc thương lượng với các cấp thẩm quyền Pháp, đặc biệt là khi tôi tiếp xúc trực tiếp và thảo luận trực tiếp với ông Antoine Pinay. Được vũ trang bằng sự uỷ quyền chính thức của Tổng thống Diệm, và được tăng thêm sức mạnh nhờ ḷng tin cậy của ông, tôi qua Pháp và viếng thăm nhiều lần Ngân hàng Quốc gia Pháp và Bộ Tài chánh Pháp. Lần này các viên chức nhà nước Pháp đă nhận được thông báo chính thức về chuyến viếng thăm của tôi qua toà đại sứ Pháp ở Sài G̣n. Họ tiếp đón tôi rất nồng hậu, nhưng không có ai trong chính quyền Pháp tỏ vẻ muốn dấn thân vào những cuộc thảo luận quan trọng như vậy. Đây không phải là một vấn đề kỹ thuật đơn thuần. Đây là một vấn đề chính trị hết sức phức tạp và hết sức gai góc, bởi v́ đây sẽ là lần đầu tiên mà nước Pháp thương thuyết về một hiệp ước tiền tệ với một nước thuộc địa cũ: bất cứ một nhượng bộ nào đối với Việt Nam cũng sẽ bị các nước thuộc địa cũ và các nước trong Liên hiệp Pháp ganh tị và đ̣i hỏi cho chính ḿnh, nó đánh dấu bước khởi đầu của những thay đổi lớn lao trong hệ thống tiền tệ của Pháp. Cần phải có một con người có quyền lực chính trị to lớn và có rất nhiều can đảm để phát động những bước đi quan trọng như vậy.

Rất may là không bao lâu tôi đă t́m ra con người ấy. Trong thời gian ở Paris, tôi thường lui tới gặp gỡ bạn bè cũ trong giới ngân hàng, hy vọng sẽ t́m được một ai đó có thể giới thiệu tôi với một nhân vật chính trị như vậy. Tôi tṛ chuyện nhiều lần với viên phó Tổng Giám đốc Đông Dương Ngân hàng, ông René Bousquet, và chúng tôi mau chóng trở thành bạn thân v́ có khá nhiều điểm tương đồng. René Bousquet đă là Thứ trưởng Bộ Nội vụ khi mới 35 tuổi. Ông đă bắt đầu một sự nghiệp sáng chói ở cái tuổi mà những chính trị gia và viên chức nhà nước lăo thành coi là c̣n quá trẻ. Khi ông biết rằng tôi được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Ngân hàng Trung ương và Tổng Giám đốc Ngân hàng Việt Nam Thương tín, đồng thời là cố vấn Tổng thống ở tuổi 31 th́ ông nh́n thấy nơi tôi h́nh ảnh xa xưa của chính ông những năm 40, và ông cũng thèm muốn được như tôi bởi v́ mọi hoàn cảnh đều rất thuận tiện cho sự nghiệp của tôi, trong lúc các biến cố năm 1945 lại đột ngột thay đổi sự nghiệp của ông. René Bousquet chỉ quen biết ông Antoine Pinay một cách gián tiếp, v́ ông thân với hai người phụ tá của Pinay. Ông Pinay đă được tướng De Gaulle bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Tài chánh vào đầu năm 1957, nhưng không như các vị Bộ trưởng Tài chánh trước kia, ông tham gia chính phủ với tiếng tăm lừng lẫy của một con người hết sức trung thực, rất can đảm và đầy quyền lực, một người mà nước Pháp rất cần để sắp xếp lại nền kinh tế tài chánh ốm yếu của nó.

René Bousquet lắng nghe bài diễn thuyết chỉ trích dài dằng dặc của tôi về mối quan hệ tài chánh bất công và bất b́nh đẳng giữa Pháp và Việt Nam và về hệ thống tiền tệ lỗi thời, không thích hợp, mà nước Pháp đă áp đặt lên đất nước chúng tôi. Mặc dù các ư tưởng của tôi không hợp với các quyền lợi ích kỷ của Đông Dương Ngân hàng, lúc bấy giờ vẫn c̣n nắm giữ một phần đáng kể cái quyền lực tài chánh của nó ở Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa, René Bousquet vẫn lắng tai nghe một cách đầy thiện cảm, bởi v́ vào thời ông, ông cũng đă phục vụ lợi ích của nhân dân và vẫn c̣n giữ nguyên ư thức chính trị ấy mặc dù ông đang ẩn náu trong một tổ chức phi chính trị. C̣n tôi th́ có cảm giác rơ rệt rằng ông có thể giúp đỡ tôi rất nhiều trong công việc thương thuyết, nên tôi yêu cầu Ngân hàng Quốc gia kư thác một tài khoản mới vào Đông Dương Ngân hàng để tăng thêm uy tín của ông và để ông có thể giúp đỡ tôi mà không phải tỏ ra đi ngược với quyền lợi cơ quan của ông một cách quá đáng. René Bousquet hứa sẽ yêu cầu hai người bạn ông sắp xếp cho tôi một buổi gặp gỡ với ông Antoine Pinay.

Trong khi tôi đang ṃ mẫm ḍ đường trong các hệ thống chính trị và tài chánh rối rắm của nước Pháp, th́ một người nào đó nói với ông Diệm rằng việc gởi tôi, một tay Tổng Giám đốc quèn, qua Paris để thực hiện một thoả ước tiền tệ phức tạp với nước Pháp, chỉ tốn thời gian vô ích, và tôi không thể nào t́m được một nhân vật Pháp đủ quan trọng và đủ quyền lực để nói chuyện, chứ đừng nói là thương lượng – sau này tôi biết người đó là vị Bộ trưởng phủ Tổng thống, anh ta đă nói những lời này với Nhu, em của Tổng thống Diệm. Ông Diệm bèn gởi điện cho toà đại sứ ở Paris, biểu chuyển cho tôi một thông điệp ra lệnh tôi quay về nước ngay. Nhưng một người em của ông Diệm, Ngô Đ́nh Luyện, người đang làm đại sứ nước Anh, lúc ấy t́nh cờ có mặt ở Paris. Tôi tới gặp Luyện và kể cho anh ta nghe tất cả công việc móc nối của tôi. Luyện khuyên tôi cứ ở lại để tiếp tục công việc và anh sẽ gọi điện cho Tổng thống Diệm ngay lập tức. Nhưng tôi vẫn cứ rời Paris bay về nước với ư nghĩ phải đương đầu với Diệm và những kẻ phá rối tôi một lần chót cho xong (Trở Lên).